a

Mời các bạn bấm vào cuối trang BÀI ĐĂNG CŨ HƠN để đọc tiếp. Những bài viết về trường Trung học Bán Công Định quán được đặt trong thư mục KÝ ỨC HỌC TRÒ.

Chủ Nhật, 16 tháng 12, 2012

Trịnh Công Sơn 4

Phần 4

Tháng sáu năm 1966, Tâm nhập ngũ. Sơn chuyển qua phòng Tâm. Hai chúng tôi ở hai phòng riêng biệt. Trừ những lúc đi ăn cơm, uống cà phê, chơi bi da chung với nhau, Sơn ở lì trong phòng. Sơn không còn thú ngồi trước hiên nhà, chờ ngắm cô Ngà đi lễ mỗi buổi chiều với chiếc áo dài lụa màu mỡ gà sáng lóa trong ánh nắng xiên khoai sắp tắt. Bây giờ chỉ còn tiếng chuông nhà thờ quyện bước chân đi và gió chiều nhẹ đuổi theo, khẽ rung tà áo. Hai bên đường, đám lau trắng đã nở hết bông chỉ còn lại những thân xương khô quắt chỉa lên trời.
Giáng sinh năm đó tôi cưới vợ và thuê căn lầu của nhà may Tân Việt để ở. Sơn vẫn ở một mình trong căn nhà bà Phi. Mỗi buổi sáng đi dạy, đi ngang nhà chúng tôi, thỉnh thoảng Sơn tạt vào xin vợ tôi ly sữa dằn bụng. Nhất là những ngày cuối tháng. Bây giờ Sơn không còn tươi vui như xưa. Sơn mệt nhọc trong dáng đi và nhiều suy tư, âu lo hằn trên vầng trán.

Chia Tay:

Hè 1967. Chúng tôi đang mỗi người mỗi nơi nghỉ hè, bỗng đồng loạt nhận được điện khẩn của Ty, nhắn lên gấp để nhận lệnh nhập ngũ. Phía dưới bức điện chua thêm hàng chữ: "Nếu trình diện trễ hạn sẽ bị đưa ra trường Hạ Sĩ quan Đồng Đế". Thế là không hẹn mà chúng tôi gặp nhau một ngày tại Ty. Tay trái nhận lệnh tổng động viên, tay phải nhận phong bì lương, Ty ứng trước một tháng để ăn đi đường. Không thấy Sơn đâu. Hỏi anh Thành, phát ngân viên, anh cho biết:
- Sơn đã đến đây hôm qua nhận lệnh và lương đi rồi.
Tối hôm đó, chúng tôi gồm: Đạo, Hinh, Sang, Nghị, Bạch, Tâm lùn, Ngọc (Lãng sốt rét và Thao què được miễn dịch) tụ tại nhà Nghị uống một bữa thật say để chia tay. Ai cũng ví mình như Kinh Kha đang ở bờ sông Dịch, một đi không trở lại. Chỉ tiếc không có ai là Cao Tiệm Ly thổi đưa khúc sáo lên đường. Chúng tôi đang lúc ngà ngà, ôm nhau hát bài "Những ngày xưa thân ái" của Phạm thế Mỹ. Cứ lặp đi, lặp lại điệp khúc..."Chỉ còn tay súng nhỏ, giữa rừng sâu giết thù. Những ngày xưa thân ái xin gửi lại cho nhau..." Hát xong rồi cùng nhau khóc. Khóc như trẻ thơ. Khóc tự nhiên không một chút xấu hổ.
Sáng hôm sau tỉnh dậy, chỉ còn lại vài mạng, say quá chưa tỉnh nổi. Còn bao nhiêu thì đã đi rồi. Tôi ra bến xe. Nhìn lại quang cảnh vẫn y như cũ. Không có gì thay đổi. Nhưng hôm nay sao thấy buồn quá đổi. Cái gì cũng có vẻ xa vắng, bơ thờ. Khi xe chạy ngang bờ hồ, tôi thì thầm:
- Giã từ Bảo Lộc mến yêu! Biết bao giờ mới gặp lại nhau!

Xe khuất dần, tôi cố ngoái đầu lại lần chót. Chỉ còn thấy ngọn cây khô chết giữa hồ. Nước mắt tôi lại ứa ra.
 

Cuộc Tái Ngộ Không Ngờ: Năm một ngàn chín trăm bảy mươi, quân lực Việt Nam Cộng Hòa, với kế hoạch "Bình Định và Xây dựng nông thôn" lấy nông thôn bao vây rừng núi, Việt Cộng bị triệt đường tiếp tế. Cán binh đói, đành lui về thế thủ. Cuộc chiến lắng dịu. Bộ Giáo Dục cùng các bộ khác như Y tế, Công Chánh, Kinh Tế... đồng thanh kêu gào thiếu nhân viên và xin Bộ Quốc Phòng trả lại người cho mình. Phó Tổng thống Trần văn Hương phải can thiệp với chính phủ để trả lại nhân viên cho các Bộ. Nhưng bộ Quốc phòng chỉ đồng ý với điều kiện tạm thời "biệt phái". Hễ quân đội cần là "lôi" đầu trở lại cầm súng. (Vì hai chữ "biệt phái", sau tháng tư, bảy lăm chúng tôi bị đày đi lao cải mút mùa lệ thủy. Có lẽ trong từ điển của Hà Nội hai chữ "biệt phái" định nghĩa là làm mật vụ cho Mỹ chăng? Chúng tôi đều bị khép tội làm C.I.A.).
Sau sự can thiệp, chúng tôi lần lượt trở về nhiệm sở cũ với áo mũ, cân đai. Anh nào bây giờ cũng có trên cổ áo một bông mai vàng thắm. Đi đứng chững chạc kiểu nhà binh, trông oai ra phết. Chúng tôi không ngờ lại có ngày gặp được nhau đông đủ thế này. Từ khắp bốn vùng chiến thuật, hằng ngày đùa với tử thần và súng đạn, chúng tôi vẫn còn nguyên vẹn, không một ai sứt mẻ. Vậy mà năm xưa ra đi, ai cũng khẳng khái ngâm câu:
Túy ngoạ sa trường quân mạc tiếu
Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi.
Những cuộc vui lại nối tiếp. Đậm đà hơn xưa. Chỉ thiếu mỗi một Trịnh Công Sơn. Anh Thành cho biết:
- Mấy tuần sau ngày hạn trình diện, Nha Động viên có điện lên Ty hỏi mấy lần về Sơn. Ty có điện trả lời cho Nha là Sơn đã ký nhận lệnh nhập ngũ và chính thức rời nhiệm sở ngày...tháng...
Như vậy Sơn đã thật sự trốn lính.
Ông Thống đã về hưu. Ngôi trường Bảo An trên đồi ngày xưa, giờ đây có một giáo viên Thượng tên K’Brí làm trưởng giáo. Trong Ty Tiểu Học chỉ có một thay đổi nhỏ. Nhỏ mà lớn. Còn lại mọi việc vẫn như cũ. Ông Lợi vẫn Ty trưởng. Ông Lương vẫn thanh tra. Ông vẫn ngồi xếp hồ sơ ngay ngắn, từng tờ, từng tờ cho hết giờ hành chánh. Anh Thành vẫn cùng ông Đạt phát lương. Cô Lan, "người vợ không bao giờ cưới" của Nguyễn Văn Ba, buồn, chịu không nổi với những kỷ niệm tình đầu ngày nào cũng chạm mặt, nên đã xin thuyên chuyển về Sài Gòn.
Cái thay đổi nhỏ mà lớn là chuyện một giáo viên người Thượng, hiệu trưởng trường Cộng Đồng Thượng Bảo Lộc, bỗng chốc nhảy lên chức Phó Tỉnh Trưởng. Số là, để chiêu dụ người Thượng Tây nguyên chống lại bọn FULRO đang quấy phá miền cao nguyên, chính phủ lúc bấy giờ đặt thêm một bộ nữa chuyên trách về vấn đề này gọi là Bộ Sắc Tộc. Mỗi tỉnh thuộc vùng cao phải có thêm một ông Phó tỉnh người Sắc Tộc. Nhưng đào đâu ra người Thượng biết chút ít chữ nghĩa? Nếu không là một trong những giáo viên Thượng? Thế là anh giáo viên K"Breo nghiễm nhiên trở thành nhân vật quan trọng. Ngày xưa, mỗi lần đến Ty để lãnh lương hay tiếp nhận công văn, khúm na, khúm núm. Ông Lợi thì cứ réo:
- Này K"Breo! Vào đây bảo!
Bây giờ thì K"Breo lúc nào cũng áo vest, cà vạt, đi xe Jeep có tài xế lái. Bây giờ mỗi lần K"Breo đến Ty thì ông Lợi phải một điều: - Dạ vâng! Hai điều: - Dạ vâng! Thưa ông Phó phải ạ!
Khi K"Breo vừa ra khỏi cửa Ty, anh Thành rít một hơi dài thuốc lào, móp sâu hai má, ngữa mặt nhả khói lên trần nhà xong, buông một câu gọn lõn:
- Đéo mẹ đời!
Ông Lợi ngồi trong văn phòng cười nhếch mép, tay gõ gõ ống vố vào gạt tàn.

Trịnh Công Sơn và Tình Bè Bạn....
Sau một tuần, anh em lục tục lên đủ mặt.
Bữa tiệc tẩy trần thật tưng bừng. Chúng tôi thầu hết tầng lầu trên của Câu Lạc bộ. Bây giờ thì ăn nói thoải mái, không còn phải e dè mấy tên du đãng tép riu. Sau vài ly máy nóng, chúng tôi tha hồ kể "chuyện nhà binh". Chuyện khói lửa bốn vùng chiến thuật nguội dần. Có anh sực nhớ tới Trịnh công Sơn, hỏi trống không:
- Có ai biết anh chàng Sơn nhà mình bây giờ ở đâu, làm gì không hè?
Hiện đáp:
- Tôi biết. Sơn bây giờ nổi tiếng lắm. Không những trong nước mà cả thế giới cũng biết.
Bạch không tin:
- Thôi cha! Xạo vừa vừa thôi! Thằng chả trốn lính, làm ăn gì được mà nổi tiếng!

Hiện vẫn bằng cái giọng rề rà bỡn cợt, nửa đùa nửa thật:
- Tôi làm việc ở cơ quan ninh quân đội, địa bàn Sài Gòn - Chợ Lớn, nên biết một ít về ông Sơn nhà mình. Đầu tiên ông ta được một tay có cở trong không quân che chở, cấp cho một cái thẻ "Chứng chỉ tại ngũ" chức vụ binh nhì lèo.
Có tiếng lao nhao:
- Ai vậy? Ai vậy? Ông biết không?
- Sao lại không! Đại Tá Lưu Kim Cương chớ ai vào đây nữa! Cảnh sát biết thừa đi chứ. Nhưng không dám đụng vào ổ kiến lửa.
Hiện cười cười, tợp thêm một ngụm bia rồi tiếp:
- Sau tay này tịch. Cụ Sơn nhà mình bèn làm một bản nhạc để tạ ơn người che chở mình. Bản nhạc có tên là"Cho một người nằm xuống".
Tín nhảy vô vòng chiến:
- Ông rề rà bỏ mẹ! Thế thì tôi hỏi ông nhé! Bao nhiêu năm ông già Thống còng lưng dạy thế cho ông ấy, để ông ấy lo việc công danh của mình, ông ấy có làm bản nhạc nào tên là "Cho một người dạy thế" để tạ ơn ông Thống không?
Hiện vẫn đũng đỉnh:
- Ấy! Cái này thì tôi không biết. Nhưng ông Thống chưa tịch thì làm gì có nhạc để tặng? Còn ông Sơn sẽ làm hay không thì có dịp gặp mặt tôi sẽ hỏi lại rồi cho ông biết sau.
Tín thở hắt ra:
- Nói như ông chán bỏ mẹ!
Đạo sốt ruột:
- Sau khi Lưu Kim Cương chết rồi thì ai là cái ô dù của ông Sơn?
- Cái ô dù hãy còn bé lắm. Phải nói là cây đa cổ thụ mới đúng.
Nói tới đây, Hiện dừng lại, thong thả rót bia vào ly mình một cách chậm rãi để bọt khỏi tràn miệng ly rồi nâng ly lên làm mấy tợp, mặc cho bao nhiêu con mắt đang hau háu chờ đợi.
Nghị nóng nảy văng tục:
- Mẹ! Cứ vờ vịt! Ông đấm buồi vào!
Hiện khà một tiếng sảng khoái, đưa tay chùi mép rồi mới tiếp:
- Cây đa cổ thụ là tướng Nguyễn Cao Kỳ, Chủ tịch Ủy ban Hành pháp Trung ương đấy.
- À ra thế đấy! Nhiều tiếng xì xào.
Lãng từ đầu đến giờ vẫn ngồi im lặng nhâm nhi ly bia lắng nghe anh em kể chuyện "đường xa xứ lạ" thích lắm vì không được cái "hân hạnh", "Tòng quân giết giặc" để "Dong vó ngựa trên đường chinh chiến", bây giờ mới lên tiếng:
- Moa...moa thì "mo phú" tay nào che chở cho ông Sơn. Việc bắt ông Sơn là việc của mấy ông "cớm". Moa... moa thì moa bực cái ông Sơn nhà mình. Bực lắm cơ. Moa có mua mấy tập nhạc của ông ấy khi mới xuất bản. Tập nào cũng ghi tiểu sử có đủ thứ trên đời mà không thấy tập nào ghi lấy một dòng như "dạy học tại Bảo Lộc từ năm 1964 đến 1967" họặc "Học Sư phạm Qui Nhơn" chẳng hạn.
Moa bực là nghĩ: Chẳng lẽ ông ta có mặc cảm xấu hổ với nghề dạy học chăng?
Võ Đôn Thao cười hề hề, rút cây Paker trong túi áo ra, lấy một tờ giấy lau tay, tính toán một lúc rồi nói:
- Nè! Mấy ông nín hết đi. Nghe tôi công bố một con số kinh khủng về ông Sơn.
Mọi người nghe Thao nói, lấy làm tò mò. Tất cả đều im lặng chờ. Thao hắng giọng:
- Này nhé! Cứ lấy đổ đồng lương ổng là 5.200 đồng một tháng, nhân lên ba năm. Tức là ba mươi sáu tháng. Vị chi là 187.200 đồng. Gạo ba đồng một ký. Ổng đã ăn hết 62.400 ký lô gạo Quốc Gia trong ba năm. Ghê chưa!
Nghị cà khịa:
- Ăn gạo được rồi! Bày đặt văn vẻ thêm hai chữ Quốc Gia sau đuôi! Khéo vẽ!
Thao phản đối:
- Tôi chưa nói hết ý, sao ông lại kê tủ đứng trong họng tôi?
Nghị cười há há:
- Chứ không phải sao?
- Phải làm sao được! Thao cương quyết.
Lãng chen vô can:
- Thì... thì để ông Thao nói hết đã, hẳn hay.
- Ừ, thì nói hết đi xem nào! Nghị đấu dịu.
Bây giờ Thao mới tủm tỉm cười:
- Sỡ dĩ tôi phải nói ăn cơm Quốc Gia là vì ông ấy thờ ma Cộng Sản. Ổng lãnh lương Quốc Gia, dùng thì giờ dạy học để làm nhạc có lợi cho Việt Cộng.
Lãng có vẽ không tán thành quan điểm đó:
- Cái đó thì chưa có gì rõ rệt để kết luận ông Sơn theo Cộng Sản. Nhưng tôi cứ bực ông Sơn. Bao nhiêu năm nhờ ông Lợi khoan dung mà không một lời ơn nghĩa.
Thao vẫn thẳng thừng khẳng định:
- Mấy ông sống ở Sài Gòn làm gì biết Cộng Sản ra sao mà nói! Gia đình tôi nè! Nhiều đời sống ở Phú Yên. Cái đất Phú Yên là cái ổ của Việt Cộng. Các ông đã từng nghe bốn chữ Nam, Ngãi, Bình, Phú chưa? Đó là bốn cái "nôi" của "cách mạng" tức bốn cái ổ của Việt Cộng đó.
Đạo thơ ngây hỏi lại:
- Ông nói bốn chữ Nam, Ngãi, Bình, Phú nó là nghĩa gì vậy?
Thao cười ngất:
- Ông là giáo viên mà không biết bốn chữ đó làm sao dạy địa lý, sử ký cho học trò?
Đạo đỏ mặt ngồi im. Được thể, Thao hăng lên:
- Đó là bốn tỉnh miền trung gồm Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định và Phú Yên. Dân ở đó, phải nói là nhà nào cũng có chồng hoặc con đi tập kết tức là theo Cộng Sản. Trừ một ít ở thành phố mới không. Nên dân tụi tôi rành sáu câu. Anh nào mở miệng ra có mùi Cộng Sản là biết liền.




Đỗ Danh Đạo từ Đức về thăm lại bạn bè.Nguyễn Tiến Lãng và Đỗ Danh Đạo - Ảnh chụp năm 2003
Tâm mập bây giờ mới lên tiếng:
- Tôi dạy ở trường Chiến tranh Chính trị Đà Lạt cũng có lúc đem vấn đề này ra tranh cãi, chưa ngã ngũ đâu vào đâu. Nhưng các đài phát thanh cứ phát nhạc của họ Trịnh, nhất là đài quân đội mới chết chứ.
Thấy không khí càng lúc càng căng, Bạch chuyển đề tài:
- Thôi! Dẹp ba cái vụ cộng, trừ đó đi. Dô một cái "chăm phần chăm" đi. Nào dô!
Mọi người đồng loạt giơ cao ly: Dô! Dô!
Tiếng cười nói lại xôn xao, náo nhiệt. Sực nhớ ra điều gì, Tín vùng nói lớn giữa tiếng ồn ào:
- Này các cụ! Còn em bé Đỗ thị Nghiên "cúng" cây đàn ghi ta cho ông Sơn ba năm có được xơ múi gì không?
Đạo là người rời Bảo Lộc sau cùng nên biết chuyện này, đáp ngay:
- Em Nghiên trước khi theo chồng về Huế có đến đòi lại cây đàn. Cũng còn may! Nếu không thì ông Sơn cũng đã quên.
Tín quay sang tôi móc lò:
- Còn ông mãnh này! Ăn cùng mâm, nằm cùng chiếu ba năm trời có được xơ múi gì không?
Tôi thật thà trả lời:
- Có! Hồi đầu tiên Sơn có tặng cho tôi và ông Lợi, mỗi người một bản "Chiều Một Mình Qua Phố".
Tín vặn:
- Bấy nhiêu thôi à! Thế mấy tập Tình ca-Ca khúc da vàng không tặng sao?
- Sơn nói nhà xuất bản cho ít quá nên không đủ tặng.
Hiện tiếp lời:
- Mấy ông đừng trách! Ông Sơn bây giờ bạn đông lắm, đếm không hết. Ông ấy bây giờ đi đâu cũng có một đám bu quanh như nhặng xanh bu c. ngựa vậy.
Anh chàng Sang ngồi im từ đầu đến cuối, bây giờ như cóc mở miệng :
- Mấy cha cứ nói chuyện trên trời, dưới đất. Hồi còn ở đây, ông Sơn đã dự đoán sau hai mươi năm nội chiến, những người còn lại đều là một "lũ bội tình". Thì ông ấy có chút bạc ơn với nghề dạy học và chút bạc nghĩa với những người bạn ở cái xứ Thượng heo hút này cũng là chuyện nhỏ trong cuộc đời vĩ đại của ông ấy mà thôi. Có đáng gì đâu mà nhắc tới !
Câu chuyện nhạt dần, không khí cũng lắng dần. Có lẽ mọi người đã ngấm say. Lần đầu tiên trở lại Bảo Lộc, sau ba năm, tôi thấy anh Lãng không còn đòi về trước để trùm mền và xoa dầu Nhị Thiên đường như xưa. Có lẽ anh đã từ chức "ông Trùm" rồi chăng? Mừng cho anh.

Lại Chia Tay:
Cuối niên khóa 1970, chúng tôi đồng loạt nộp đơn lên Bộ Giáo Dục xin thuyên chuyển về nguyên quán. Trừ những anh phải lòng với ngươì đẹp xứ sương mù thì ở lại làm rễ như Nguyễn Văn Chất cưới cô học trò năm xưa của mình, hoa khôi Di Linh. Lâm Văn Rầm làm rễ hiệu trà Bạch Tượng, đối thủ của trà Đổ Hữu, nối nghiệp ướp, sấy, chế biến trà lài, trà sói...
Đầu niên học 1971, chúng tôi đều nhận được lệnh thuyên chuyển theo đơn xin. Đó là nỗi vui mừng chung cho chúng tôi, nhưng cũng là nỗi buồn riêng cho ông Ty Trưởng Lợi và bác Trạch, Hiệu trưởng trường Nam Bảo Lộc. Hai ông buồn vì mất một lúc cả đám chúng tôi. Một đám trẻ năng động, vui nhộn mà hai ông đã có một thời gian dài gắn bó như anh em, cha con trong một gia đình. Hai ông sẽ không còn thời gian nữa để làm "một cuộc tình mới". Tóc hai ông đã bạc nhiều lắm rồi.
Ngày chia tay, cũng lại một bữa linh đình. Lần này không phải hát "Những ngày xưa thân ái" mà là những cái xiết tay rất chặt, rất lâu.
Những ánh mắt long lanh, những nụ cười rạng rỡ, những lời hứa hẹn thắm thiết sẽ gặp lại nhau tại Sài Gòn, Nha Trang, Long An và tận Phú Yên xa tít mù của Võ Đôn Thao.

Ruộng Dâu Hóa Thành Biển Xanh, Tháng Tư, Bảy Lăm.... Những lời hứa hẹn đinh ninh trong lòng chúng tôi tưởng chừng thực hiện không có gì khó khăn. Một vé xe đò, một vé máy bay hay cà rịch, cà tang một chuyến xe lửa là chúng tôi có thể gặp nhau, tha hồ mà bù khú ít ngày. Ấy vậy mà lời hẹn ước đó đã không bao giờ có cơ hội thực hiện được.
Tháng tư năm một ngàn chín trăm bảy mươi lăm, thống nhất hai miền Nam Bắc. Hòa bình đã lập lại sau hơn ba mươi năm trả giá bằng núi xương, sông máu. Hòa bình đã trở về với dân tộc Việt Nam.
Dân chúng Miền Nam cùng nhau đổ ra đường vẫy cờ, reo mừng đón chào đoàn quân chiến thắng đang dương oai, diệu võ trên đường. Họ hát vang những bài ca "Giải phóng Miền Nam" và nhất là bài "Nối vòng tay lớn" của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. Bài hát mà anh đã đem hết tâm huyết viết nên để chờ cái ngày vinh quang hôm nay. Và cũng là cái ngày anh hồ hởi, phấn khởi được hát vang lồng ngực, rộng mở hết các mạch máu con tim để ca ngợi thành quả cách mạng trên các đài phát thanh Sài Gòn-Huế, khi "Tổng thống ba ngày" Dương văn Minh tuyên bố buông súng đầu hàng. Anh đã toại nguyện. Lời nhạc trong bài Nối Vòng Tay Lớn được nhà cầm quyền Hà Nội minh họa bằng một bức tranh hòa bình trong đó vẽ con chim bồ câu trắng, mỏ ngậm cành nguyệt quế, dang thẳng đôi cánh bay lượn tự do giữa trời xanh, mắt liếc nhìn xuống một đám người, gần một triệu quân, cán, chính đang "Nối vòng tay lớn, tay nọ nối tay kia bằng một sợi dây dù cột chặt, đi vào trại Cải Tạo. Trong đó có tôi.
Để trở nên một công dân hữu ích cho xã hội mới, một xã hội văn minh, tiến bộ, người không bóc lột người, một xã hội bình đẳng, không có giàu nghèo, ai ai cũng được lao động như nhau, vì lao động là vinh quang, tôi đã được đảng Cộng Sản giáo dục gần năm năm rưỡi, gột rửa sạch mọi tư tưởng ăn bám xã hội trong tôi bấy lâu nay. Tháng sáu năm một ngàn chín trăm tám mươi mốt (6/1981), tôi tốt nghiệp ra trường với một chứng chỉ chứng nhận, in ronéo ba chữ to tướng: GIẤY RA TRẠI phía dưới có chữ ký và khuôn dấu Bộ Công An nhà nước Xã hội Chủ Nghĩa hẳn hoi. Nhờ thời gian trong trại, tôi đã thắm nhuần lý thuyết chủ nghĩa Cộng Sản và thông thạo lao động thực tiễn, tôi đã trở thành con người mới. Tôi thực sự trở thành con người mới. Tôi đã học được rất nhiều điều từ một nền văn hóa, văn minh của Xã hội Chủ Nghĩa mà trước đây chế độ Giáo Dục miền Nam rập khuôn theo đế quốc không dạy cho tôi. Nền giáo dục đồi trụy ấy chỉ dạy cho tôi trở thành một thầy giáo cả đời chỉ biết cầm phấn. Hôm nay tôi hãnh diện mà khoe rằng, tôi đã biết chăn trâu, chăn bò, chăn heo (từ cơ bản này tôi có thể trở thành nhà lãnh đạo đất nước trong tương lai). Biết thế nào là cuốc lật những đám đất cằn cỗi bỏ hoang hơn ba mươi năm. Biết giá trị những củ lang, củ mì. Bài học giá trị này đích thân Trung tá Hạnh, Trưởng trại A 30, truyền dạy cho tôi với khẩu quyết:
Làm ăn no đủ, nhờ củ với khoai,
Làm ăn lai rai nhờ khoai với củ.
Cái ích lợi còn nhiều lắm, kể ra không xuể. Nền văn hóa văn minh của Xã hội Chủ nghĩa thật tuyệt vời. Tiếc cho những ai bỏ chạy quá sớm ra nước ngoài, không được hưởng ơn mưa móc của đảng Cộng Sản và Nhà nước và nhất là không hưởng được chút sái của nền văn hóa đó. Tiếc thay!
Về nhà, với chứng chỉ tốt nghiệp trên tay, tôi được Hợp tác xã Xây dựng thu dụng ngay với chức năng đạp xe ba gác chở xà bần đi đổ. Tôi không bị bóc lột như trước kia làm thầy giáo. Tôi được trả lương xứng đáng với công việc: sáu đồng một ngày. Mỗi tuần được hưởng một ngày nghỉ ngơi, không lương. Tôi vô cùng sung sướng. Trên đường về tôi hân hoan trong lòng: Từ nay ta thực sự đã thành một công dân trong một xã hội hết sức tốt đẹp mà ít nước nào trên thế giới có được. Đó là "NƯỚC CÔNG HÒA XÃ HÔI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM". Và tôi cũng tính nhẩm một cách "lô-gic" trong đầu cách chi tiêu với số lương ấy: Sáu đồng = Ly cà phê đen quốc doanh 2$ + Gói thuốc lá đen Hoa Mai 4$. Cơm ngày hai bữa có má lo. Từ đó tôi an tâm hăng say, miệt mài lao động cho đến ngày được phép rời đất nước thân yêu, để lên đường đi định cư ở nước thứ ba.
Giã Từ : Tháng 11 năm 1991, tôi đem hết gia đình vào Sài Gòn để chờ máy bay. Thời gian này, tôi gặp lại Lãng, Hinh, Tâm lùn và Sang. Lãng vẫn tiếp tục dạy học vì anh không có "nợ máu; với nhân dân. Anh được chuyển sang dạy cấp hai. Nay anh đã có vợ và hai con. Tâm cùng vợ bán sữa đậu nành sống lây lất qua ngày. Tối hì hục xay đậu. Sáng hì hục đẩy xe ba gác ra chợ Bà Chiểu bán. Sang cũng tốt nghiệp từ một trại Cải Tạo miền Nam, về vớ được một bà lỡ thì, bán chuối ở chợ Ông Tạ. Ngày ngày phụ với vợ vác những quầy chuối bán từ đầu chợ đến cuối chợ. Hinh cũng đã có vợ và một con. Phụ một chân sai vặt cho "ông bà bô" bán hàng trong một quán cóc ở Gò Vấp, kiếm cơm ngày hai bữa.

Bạn bè một thuở nay vừa gặp lại
Từ trái sang phải:  Nguyễn Văn Tâm, Nguyễn Tiến Lãng,
Nguyễn Đức Hinh và Đỗ Danh Đạo.
Ảnh chụp năm 
2003

Trong một bữa nhậu chia tay cuối cùng gần cổng xe lửa số 6 (bò bảy món Ánh Hồng xưa) thăm hỏi những bạn bè cũ còn lại được những ai, thì được biết Đỗ Danh Đạo vượt biên, nay đang ở Tây Đức. Còn bao nhiêu thất tán trong trận cuồng phong thổi vào Sài Gòn tháng tư, bảy lăm. Bấy lâu không gặp lại một ai. Bữa ăn thật buồn. Tâm lùn cố pha trò nhưng vẫn không đánh tan nỗi u sầu nặng trĩu trong lòng mọi người.



Đỗ Danh Đạo, Trần Văn Ngọc - Hình chụp năm 2003
Lãng vẫn còn nói lắp:
- Thế... thế, trước khi rời khỏi Việt Nam, ông có định đến thăm Trịnh Công Sơn lần chót không?

Mọi người lúc ấy mới chợt nhớ ra là mình còn một người bạn tên là Trịnh công Sơn. Tôi hơi e ngại chuyện đến thăm. Sợ bị hiểu lầm dựa hơi, nhờ cậy. Tôi kể lại chuyện gặp hai ông Trịnh ở Nha Trang năm 1970, Sơn không thấy tôi hay không nhận tôi. Sang chép miệng:
- Đọc báo thấy nói ổng quen toàn những văn nghệ sĩ từ cái thời Nhân văn Giai phẩm ngoài Bắc như Văn Cao, Phùng Quán, Hoàng Cầm... không hà!
Sang lại chửi đổng:
- Mẹ! Thấy sang bắt quàng làm họ!
Hinh tiếp lời:
- Tôi có lần đến cà phê của anh ta. Chung quanh anh ta lúc nào cũng có một đống bu quanh.
Tâm hỏi:
- Thế anh ta có nhìn thấy ông không?
Hinh tặc lưỡi:
- Anh ta lúc nào cũng bận tíu tít với cái đám bung xung thì làm gì có thì giờ nhìn thấy tôi!
Tâm phấn khích quay sang tôi:
- Ngày mốt ông lên máy bay hả? Được rồi, trưa mai 12giờ, dẹp hàng xong, tôi chở ông lên chỗ ông Sơn ở, ông vào xem thử ra sao! Bây giờ Nhà nước cấp cho ông ta một cái vi-la to lắm không biết của ai chạy bỏ lại. Mẹ! Không biết làm đến chức gì mà ngon thế? Tâm lại chửi đời. Các bạn xúm nhau mỗi người một câu, xúi tôi đi thử:
- Ông cứ đi thử cho biết tình đời! Chết thằng tây đen nào mà sợ!
Trưa hôm sau, Tâm chạy chiếc xe Honda cà tàng, xành xạch chở tôi đến vi-la của Sơn đang ở. Tâm dừng xe bên kia đường chói chang nắng gắt giữa trưa, bảo tôi qua bấm chuông. Căn biệt thự có tường vây cao quá đầu bao bọc. Dọc bên trong có trồng trúc kiểng cao quá tường. Tôi bấm chuông. Cánh cửa sắt hé mở. Dưới tàn một khóm trúc ngay cổng, hai thanh niên vạm vỡ đang ngồi nhâm nhi. Chai Whisky vơi quá nửa. Một người hỏi tôi:
- Ông hỏi ai? Có việc gì?
- Tôi là bạn của ông Sơn lâu lắm rồi. Đến thăm thôi, không có việc gì cả!
- A! Anh Sơn đang nghỉ trên lầu! Ông đứng đây chờ một chút. Tôi lên thông báo rồi cho ông hay.

Anh ta bỏ ly rượu xuống bàn, bước vào nhà. Độ hai phút trở ra nói:
- Anh Sơn đang mệt cần nghỉ ngơi, sáng giờ uống hơi nhiều. Nếu ông cần gì, xin viết giấy để lại, chúng tôi sẽ trình với anh Sơn.
Nói xong anh ta xé trong tập sổ tay một tờ giấy con đưa cho tôi và cây viết Bic. Tôi lưỡng lự không biết phải viết cái gì. Nhìn qua bên kia đường thấy Tâm đang đưa tay quẹt mồ hôi trán, lòng tôi bất nhẫn. Tôi lia ngay một hàng không nghĩ ngợi: "Anh Sơn! Từ năm 1967 đến nay mới có dịp vào Sài Gòn. Ngày mai tôi sẽ lên máy bay đi Hoa Kỳ, nên ghé thăm anh tí chút, nhưng không được gặp. Thôi, xin hẹn lại kiếp sau". Đưa trả lại tờ giấy cho người bảo vệ, tôi quay lưng đi thẳng.
Trên đường về, Tâm hỏi:
- Sao? Không có Sơn à?
- Có! Nhưng tên bảo vệ nói là Sơn sáng nay uống rượu hơi nhiều nên mệt, cần nghỉ ngơi. Hắn bảo tôi cần gì thì viết giấy để lại.
- Ông có viết không?
- Ban đầu tôi định không viết. Nhưng nhìn thấy ông đứng ngoài nắng nhễ nhại mồ hôi, tôi đâm bực, viết đại một câu cho bỏ ghét. Bây giờ nghĩ lại thấy cải lương quá!
- Câu gì mà cải lương?
- Xin hẹn lại kiếp sau!
Tâm cười ha hả:
- Thì đúng boong! Ông qua Mỹ rồi, làm gì có ngày về lại Việt Nam để gặp lại nhau? Không là kiếp sau à!
Tâm lại hỏi:
- Ông có nghĩ rằng họ sẽ đưa tờ giấy đó cho ông Sơn không?
- Không! Tôi nghĩ là không! Lúc tôi viết mấy chữ đó, liếc mắt thấy nó nhếch mép cười. Tôi chắc rằng khi quay lưng đi, chúng nó sẽ vất vào giỏ rác ngay. Vả lại, với chức quyền như Sơn hiện giờ thì ngày nào lại chẳng có khối thằng đến xưng là bạn để cầu cạnh, lợi dụng. Họ bận tâm làm gì!
Tâm vẫn ức:
- Ông Sơn làm nhạc thì ăn cái dải gì mà cầu cạnh?
Tôi phì cười vì cái ý nghĩ đơn giản của Tâm:
- Bán sữa đậu nành như ông, bán chuối lề đường như ông Sang thì không cần. Nhưng ông viết văn, làm nhạc thì phải khom lưng cười cầu tài đó!
- Sao ông biết?
- Tôi không biết ông Sơn đang nắm giữ chức vụ gì, nhưng cứ suy đoán thì thấy ngay. Này nhé! Cứ đem so sánh với những tay một đời theo đảng, mấy ai đã được ân sũng như thế? Vi-la này! Những hai bảo vệ này! Còn vô khối bổng lộc ngõ trước, ngõ sau thì đủ biết Sơn đang giữ chức vụ lớn và quan trọng lắm.
- Mới tới đây có mấy phút mà nghe ông nói như thánh nói!
- Cần gì phải thánh mới biết! Cứ nhìn đầy tớ gác cổng mà uống whisky thì biết ngay đời sống của thầy!
Sáng hôm sau, một ngày cuối tháng 11 năm 1991, tôi bước chân lên máy bay, gạt nước mắt giã từ quê hương yêu dấu để đến một đất nước xa lạ, nhưng có tự do. Ở đó con người mới có cuộc sống thực sự của con người.
Mấy Lời Kết: Trịnh Công Sơn giờ đã xuôi tay, giã từ cuộc đời, sau hơn bốn mươi năm ngụp lặn trong danh lợi như tất cả những ai sống trên cõi đời này. Chết là hết. Ngẫm câu "Thế sự du du nại lão hà" mà ngao ngán.
Cũng may, trong thời gian tôi bị cải tạo, gia đình tôi còn cất dấu được tập hồ sơ công vụ của tôi và một ít hình ảnh kỷ niệm ở Bảo Lộc, tôi mới ghi lại được những tài liệu chính xác về ngày, tháng, năm về một quãng đời có dính dáng đến Trịnh công Sơn dạy học ở đây. Nếu không thì chắc chắn, khi mới đọc qua tiêu đề "Về một quãng đời...." sẽ có người kêu lên ngay rằng- "Lại thêm một thằng nữa nhảy ra xưng là bạn của Trịnh Công Sơn. Cái loại này bây giờ ở đâu lòi ra nhiều quá. Xúc đổ đi không hết! Đời chó thật!". Nay, nhân đọc mấy bài báo nói về họ Trịnh, gọi là tưởng niệm, thấy hai phe khen và chê có những điểm không đúng về con người đời thường của Trịnh Công Sơn và cũng do sự thúc đẩy của bạn bè, lần đầu tiên tôi tập cầm bút viết lên những lời thô thiển, nhớ sao viết vậy, không văn vẻ. Mong được lượng thứ.
Nhìn lại những tấm hình chụp bốn chúng tôi khi ở chung với nhau trong ngôi nhà của bà Trần Thị Phi năm 1964, tôi không khỏi ngậm ngùi. Nguyễn Văn Ba, Trịnh Công Sơn đã về với cát bụi. Nguyễn Hảo Tâm không biết giờ này đã từ Ấn Độ về chưa? Còn tôi, làm thân lưu lạc xứ người, không biết bao giờ mới trở lại quê hương.



Từ trái sang phảiNguyễn Văn Ba, Nguyễn Thanh Ty (Tác giả viết bài này), Đỗ Danh Đạo, và Trịnh Công Sơn.    Ảnh chụp tại nhà bà Phi - chủ nhà cho thuê - năm 1964.
Nhìn nét mặt bốn người thuở hai bốn, hai sáu, trẻ trung, hồn nhiên, vô tư thật dễ thương. Cái miệng Sơn cười rộng thoải mái, cái vầng trán cao, đôi mắt hiền lúc nào cũng mơ màng, tạo nên khuôn mặt có nét dễ thương, ưa nhìn. Có lần tôi đã nhận xét, Sơn hiền lành đến độ nhu nhược, nếu không nói là hèn. Cái hiền đó bị người ta lợi dụng. Cái "thiên tài" của Sơn như con dao sắc, tự nó không làm hại ai. Ai lợi dụng được Sơn thì xử dụng được con dao đó.
Khi ở Bảo Lộc, Sơn đã bị Hoàng Phủ Ngọc Tường lợi dụng Sơn vào mưu đồ chính trị của mình để lập công với Cộng Sản tàn sát dân Huế Tết Mậu Thân mà Sơn không hay biết cứ tưởng đó là lòng yêu nước. Sau về Sài Gòn, trong thời gian trốn lính, Sơn bị hai người bạn "chí cốt" là Trịnh Cung và Đinh Cường lợi dụng sự nổi tiếng của Sơn để ké chút hào quang. Chắc chắn hơn ai hết, hai ông Cung và Cường đều biết Sơn đang đi vào con đường nào mà vẫn cứ bao che, biện hộ để hưởng sái. Sái của cái danh hão!
Sau 75, Sơn càng bị nhà cầm quyền khai thác triệt để, như một trái chanh, "thiên tài" của anh để phục vụ cho mưu lược chính trị. Có lúc Sơn phải than thở riêng với vài bạn thân về hai chữ nên hay không "thỏa hiệp". Cuối cùng không dám có dũng khí bứt ra khỏi vòng "kim cô" danh lợi. Từ đó Sơn lún mãi vào "một cõi thiên đàng" hay "một cõi đi về?" để hưởng thụ những xa hoa đã một đời mơ ước. Người trần mắt thịt mà! Đừng bắt Sơn phải làm thần thánh! Và Sơn đã toại nguyện cho đến lúc nhắm mắt xuôi tay.
Tôi và các bạn tôi, một thời ở Bảo Lộc, đối với Sơn, chỉ là bạn đồng nghiệp trong một thời gian ngắn ba năm, nên là những kẻ vô danh. Nhưng trong lòng chúng tôi luôn luôn vẫn dành cho anh một khoảng lớn chứa hình ảnh và những tiếng hát của anh về những bản tình ca. Chúng tôi yêu mến anh và bây giờ tình cảm đó vẫn còn nguyên vẹn.
Tôi tha thiết kêu gọi những ai đã từng lợi dụng Sơn, xin hãy ngừng lại đi thôi. Hãy để Sơn yên nghỉ. Bởi vì Sơn không có ai là bạn cả. Sơn đã có lần tự thán "rồi một hôm chợt thấy hoang vu quanh mình". Nhớ lại ngày Sơn đưa tôi tập bản thảo "Ca khúc da vàng" cho tôi xem. Tôi đã nói: - Loại nhạc này nó không hợp với con người của ông... Hôm nay tôi cũng sẽ nói:
- Ông Sơn à! Hơn sáu mươi năm qua, với nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý, người ta vẫn thích và vẫn hát "Dư âm" chớ người ta không hát "Người đi xây hồ Kẻ Gỗ" hoặc "Em đi làm Tín dụng". Trường hợp ông cũng vậy. Ít nhất là có tôi. Đến nay đã bốn mươi năm qua, tuổi đời hơn sáu chục, có những buổi chiều mưa rả rích trên đất khách, quê người, tôi bỗng chợt lẩm nhẩm mấy câu "Chiều này còn mưa sao em không lại! Nhỡ mai trong cơn đau vùi làm sao có nhau. Hằn lên nỗi đau! Bước chân xin em về mau!..." với một nỗi xúc động nghẹn ngào. Chứ tôi không thể hát những lời trong "Em ra nông trường, Anh ra tiền tuyến". Cái loại nhạc đẻ non bằng thuốc kích dục để đáp ứng nhu cầu chính trị giai đoạn mà ông đã đẻ ra hằng loạt để trả nợ áo cơm nó sẽ chết yểu. Ông còn nhớ bài "Vui xây Ấp Chiến lược", ông sáng tác cấp tốc lúc học Sư phạm để chúng tôi đi dạy thực tập không? Chúng tôi đã chê. Và ông đã để nó chết ngay vừa mới lọt lòng.
- Ông Sơn! Bây giờ ông đã về nơi ông muốn. Bây giờ người ta tha hồ tô son, vẽ phấn cuộc đời ông. Huyền thoại hóa cuộc đời ông. Mục đích để làm gì? Để vinh danh ông chăng? Ca tụng ông chăng? Một phần nào đó thôi.
Thực chất vẫn là lợi dụng ông, lại là cái chết của ông để quay phim, in nhạc, viết sách, làm thơ, làm băng về ông để... bán. Và hội thảo, hội thoại, tưởng niệm, đúc tượng, thành lập Câu Lạc bộ v.v... thậm chí lợi dụng tên ông trong các dịch vụ mua bán làm ăn như Cà phê Trịnh Công Sơn, Quán Trịnh Công Sơn...thật nhố nhăng. Chung qui cũng một chữ: trục lợi.
Trước ông, lịch sử Việt Nam đã có biết bao "vĩ nhân" về văn cũng như võ đã dày công dựng nước và giữ nước. Hỏi mấy ai được nhà nước tổ chức rầm rộ, ồn ào như đám ma của ông không? Tôi nghĩ chẳng cần phải có câu trả lời. Bởi ông đã có công gì cho đất nước ngoài mấy bản nhạc xu thời mà mọi người còn đang tranh cãi? Nếu thực sự nó có giá trị lâu dài thì chỉ là cho cá nhân ông thôi. Lợi gì cho đất nước! Bây giờ thực sự ông đã đứng ngoài vòng cương tỏa. Ông hãy nhìn lại xem. Có phải quanh ông chỉ là đám nhặng xanh đang lăng xăng làm trò múa rối?
Riêng tôi, tôi vẫn thích và thương ông với con người nghệ sĩ, bình dị, tự nhiên, hiền lành. Một thuở mà chúng tôi vẫn thường gọi ông một cách thân thương: "Chàng nghệ sĩ nhứt y nhứt quởn "*.



Ghi chú:
* Nhứt y nhứt quởn: Chỉ một bộ quần áo duy nhất.



HẾT

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét