Mỗi
thành phố đều có đặc điểm riêng: phong cảnh, khí hậu, ước mơ của những
người xây dựng. Với rừng thông trùng điệp, thác nước, hồ, suối, khung cảnh
yên tĩnh, Đà Lạt không những là một nơi nghỉ dưỡng lý tưởng mà còn là một
trung tâm du lịch nổi tiếng.
Vào
những năm 1930, ở Đà Lạt, có thể dễ dàng thuê ô tô và ngựa, nhưng nhờ khí
hậu mát mẻ, đi bộ là một thú vui lớn. Du khách dạo chơi trên những con
đường mòn dưới rừng thông hay đi xa hơn ra ngoài vùng ven thành phố. Những
ai thích leo núi, ngoài 5 đỉnh núi Lang Bi-an, có thể tự vạch những lối
đi băng rừng lên đến đỉnh non cao. Những người quan tâm đến kinh tế địa
phương có thể viếng thăm các đồn điền chè và cà phê ở Cầu Đất, Djiring và
trạm thử nghiệm cây canh-ki-na ở Đrăn. Sinh hoạt của người Thượng còn mang
tính chất nguyên sơ và thuần phác cũng rất hấp dẫn.
Du
khách đi bộ, lái xe hay cưỡi ngựa trên 3 tuyến đường vòng dài 3, 7 và 11km
đi đến thác Cam Ly và ngang qua những khu rừng tuyệt đẹp khiến người ta
liên tưởng đến rừng Fontainebleau (Phông-te-nơ-blô). Trên đường vòng 99
ngoạn cảnh (đường vòng săn bắn hay đường vòng Lâm Viên) dài 20km, du
khách gặp nhiều đàn nai quen thuộc với ô tô.
Đèo
ngoạn mục
|
Tuyến đường Đà Lạt - Phan Rang - Nha Trang là một trong những tuyến đường miền núi đẹp nhất ở Đông Dương. Trên chặng đường từ Ngoạn Mục ngang qua Trạm Hành (42km), xe đi mất hơn 1 giờ. Trên đèo Ngoạn Mục dài 20km, du khách say mê ngắm cảnh Trường Sơn từ hoành sơn cuối cùng của cao nguyên Lang Bi-an chạy đến tận Biển Đông. Đặc biệt, cách Ngoạn Mục 1km, một vọng lâu được xây cất giúp cho du khách ngắm phong cảnh tuyệt đẹp trải dài dưới tầm mắt.
Tuyến đường Đà Lạt - Buôn Ma Thuột có thể đi bằng xe trong mùa khô. Từ Đà Lạt, xe đi trên đường xuống Djiring, quẹo phải ở cây số 31 (thác Liên Khàng), đi tiếp con đường dẫn đến Buôn Ma Thuột. Sau khi đi được 148km, xe dừng bên hồ Lắc (Taklak) trong xanh. Sau một chặng đường dài 45km đi qua giữa vùng săn bắn, xe đến Buôn Ma Thuột, trung tâm của xứ Ê-đê.
Leo lên đỉnh đầu tiên trong 5 đỉnh núi Lang Bi-an tương đối dễ dàng. Du khách đi ô tô đến điểm đầu tiên (10,5km trên đường Đà Lạt - Đăng Kia). Từ sáng sớm, du khách dùng ngựa hay kiệu đi trong khoảng 1 giờ rưỡi đến một ki-ốt. Đoạn đường còn lại tuy ngắn nhưng rất dốc, phải đi bộ khoảng 45 phút. Đỉnh núi đầu tiên không phải là đỉnh cao nhất. Tuy nhiên, từ đây du khách có thể nhìn thấy phong cảnh tuyệt đẹp của vùng Đăng Kia và những hoành sơn đầu tiên của Đắc Lắc.
Tiếp tục đi trên con đường nối liền các đỉnh núi, du khách đi trong nửa giờ thì đến đỉnh núi thứ 2, rồi đỉnh núi thứ 3. Đây là một đỉnh núi cao 2.200m. Một đại dương sóng màu xanh lá cây nhấp nhô đến tận những khu rừng ở hướng Nam và Tây. Sườn đồi phía Bắc dốc đứng và rừng rậm hơn phía cao nguyên Lang Bi-an. Đây là giang sơn của những đàn nai, bò rừng, voi, heo rừng, cọp, và có thể cả tê giác. Các loài hoa phong lan và thực vật đặc biệt thu hút sự chú ý của những nhà sưu tầm.
Cuối cùng, sừng sững đỉnh núi thứ 4 và thứ 5 cao nhất trong dãy núi, phủ một lớp cây màu xanh thẫm. Từ bao đời nay, đây là những đỉnh núi thiêng của người Lạch. Họ không dám chặt phá cây cối. Không có lối đi, du khách phải dùng rìu và rựa tự mở lối đi. Leo núi trong 2 giờ đồng hồ thật vất vả nhưng bữa ăn trưa trên đỉnh núi cao, hít thở không khí trong lành và mát rượi khiến du khách quên đi nỗi gian truân vừa qua.
Mặt bằng của đỉnh núi không rộng (khoảng 15 x 30m), trúc và cây to che khuất tầm nhìn xa. Dưới chân, rừng rậm trải ra mọi phía. Vạn vật đều chìm trong sương mờ: vài cánh chim hiếm hoi, thực vật miền đất lạnh, hoa đỗ quyên... Trước khoảng không bao la, du khách cảm thấy cô đơn lạ lùng!
Leo núi Lang Bi-an tốt nhất nên thực hiện vào mùa khô, từ tháng 11 đến tháng 3. Vào thời điểm khác, đỉnh núi thường phủ đầy mây mù.
*
Ở
Đăng Kia (cách Đà Lạt 15km) có một nông trại nuôi bò và cừu cung cấp sữa,
bơ và phó-mát cho các khách sạn và dân cư ở Đà Lạt.
Nông trại Đăng Kia
|
Đối với du khách thích mạo hiểm, không chịu lùi bước trước khó khăn, Đắc Lắc rất hấp dẫn. Từ Đăng Kia, du khách đi vòng hoành sơn cuối cùng của dãy Lang Bi-an vào vùng Đắc Lắc. Một con đường rừng hẻo lánh đi ngang qua nhiều thác nước và vùng đất của các bộ tộc người Bí, Chin và Lạch. Sau ba ngày đường vượt qua nhiều nhánh sông rộng của sông Xrê Pốc, du khách đến Mébach, ven hồ Lắc. Hồ rất rộng, dài 3km, rộng 2km, nằm giữa vùng núi non hiểm trở rất ngoạn mục. Xa xa, về hướng Tây, là Buôn Ma Thuột. Đắc Lắc cũng có nhiều thú rừng như Lang Bi-an nhưng đường đi khó hơn.
*
Đà
Lạt và vùng ven có rất nhiều thác nước:
Thác Liên Khàng
|
Thác Ăn Krô-ét
|
Thác Bô Bla
Thác Pông gua
|
Thác Ăn Krô-ét (Ankroët) thứ nhất cách Đăng Kia 4km trên dòng sông Đạ Đờng là thác nước cao 18m nằm trong một vực sâu hoang vắng giữa rừng thông. Một ki-ốt được cất lên ở tả ngạn dòng sông, phía trên thác. Quanh thác, du khách nhìn thấy nhiều loài hoa phong lan. Người ta đã lập dự án sử dụng năng lượng của thác nước để thắp sáng trung tâm thành phố Đà Lạt và vận chuyển bằng đường sắt từ Krong-pha lên Đà Lạt.
Thác Ăn Krô-ét thứ hai cách Đăng Kia 6km. Ở hạ lưu sông Đạ Đờng còn nhiều thác nước khác nhưng ít ai đến tham quan vì đường sá khó khăn.
Thác Pren (Prenn) cách Đà Lạt 13km nằm ngay bên cạnh đường 20. Cũng có thể đi bộ mất 1 giờ rưỡi để đến thác Pren sau khi đi ngang qua nông trại Savoie (Xa-voa) của Grillet (Gri-dê).
Ven đường đến Djiring có thác Liên Khàng (cách Đà Lạt 31km) và thác Gu Ga (Gougah) đẹp hơn (cách Đà Lạt 38km).
Tiếp tục lên đường về hướng Djiring, cách Đà Lạt 46km, một con đường mòn dài 6km ô tô lưu thông được dẫn đến thác Pông Gua (Pongour). Đây là thác nước cao 30m hùng vĩ nhất trong vùng. Vào mùa mưa, tiếng nước va vào những tảng đá vang xa hơn 3km. Dòng nước chảy vào một hồ êm đềm dưới chân thác.
Ở phía Tây thác Pông Gua có thác Pôi (Poy), đường rất khó đi.
Thác K’Dòn (Queyon) còn hoang vu hơn, cao 45m. Đường đến thác cách đường Đà Lạt - Sài Gòn 12km ở cây số 58, nếu đi bộ phải mất 2 giờ đường rừng.
Thác Bô Bla (Bobla) cao 45m nằm trên dòng suối Đa Rê-am, cách Djiring 7km trên đường Đà Lạt - Djiring - Blao. Có những con đường mòn dẫn đến chân thác.
Trên đường 11 đi Phan Rang, nếu dừng lại ở cây số 14, du khách tìm thấy một con đường rừng dẫn đến thác Đạ Xa (Da Sarr).
*
Những
người yêu thích thể thao tìm thấy ở Đà Lạt một môi trường thích hợp. Một
trong những trung tâm thể thao hấp dẫn là Hồ Lớn. Tại đây, những ai yêu
thích chèo thuyền và bơi lội rất thích thú trải qua những giây phút khó
quên. Nhà thuỷ tạ với bục nhào đặc biệt được xây dựng cho những tay
bơi. Mùa bơi lội lý tưởng nhất kéo dài từ tháng 3 đến tháng 8. Trong thời
gian này, nhiệt độ trong nước dao động giữa 20oC và 23oC. Dưới bầu trời Đà
Lạt, tắm nắng rất tốt cho sức khoẻ và màu da. Những chiếc thuyền hai mái
chèo tha hồ trôi trên mặt nước hồ dài 2km và rộng 300m.Một địa điểm khác cũng hấp dẫn không kém là sân cù 9 lỗ với lối đi rất đa dạng. Trên sân cù có một câu lạc bộ đầy đủ tiện nghi. Những người chơi cù tranh cúp vào dịp Tết dương lịch và lễ Phục Sinh.
Đà Lạt còn có nhiều sân quần vợt. Những nhà thể thao thường lui tới nơi này trong mùa khô, tranh cúp hằng năm tổ chức vào dịp lễ Phục Sinh và tranh giải trong những dịp khác.
Từ tháng 9 đến tháng 12 là thời gian tranh giải bóng đá.
Những người thích cưỡi ngựa có thể thuê ngựa theo giờ. Loại ngựa địa phương tuy nhỏ con nhưng chạy rất dai sức, thích nghi với địa hình miền núi.
Thuỷ tạ
|
|
Đồi cù
|
Câu lạc bộ thể thao
|
- Langbian Palace là một khách sạn lớn sang trọng, trang bị hiện đại, có 30 phòng;
- Hôtel du Parc;
Ngoài ra, Đà Lạt còn có nhiều biệt thự, nhà nghỉ gia đình (pension de famille), 3 cư xá và 6 khách sạn khác (Bảng trang 167):
Khách sạn giảm giá cho những gia đình đông người và du khách ở lại Đà Lạt trong thời gian dài. Những biệt thự và ngôi nhà gỗ giữa vườn hoa nhỏ xinh xắn được cho thuê với giá phải chăng: từ 60 đến 200 đồng mỗi tháng. Giá thuê phòng tại Khách sạn Hồ là 5 đồng mỗi ngày, không kể rượu nho. Thời gian tối thiểu mỗi chuyến nghỉ dưỡng và du lịch ở Đà Lạt là 20 ngày. Tiền xe và lưu trú mất khoảng 130 đồng cho 1 người và 240 đồng cho mỗi gia đình không con.
STT
|
TÊN CƯ XÁ
VÀ KHÁCH SẠN
|
VỊ TRÍ CŨ
|
VỊ TRÍ HIỆN NAY
|
1
|
Cité Bellevue (cư xá Ngoạn Mục) | Đường Canivey | Đường Lê Lai |
2
|
Cité Decoux hay Cité des Pics (Đỉnh núi) | Gần hồ Đa Thành | Đường Vạn Kiếp |
3
|
Cité Saint Benoit | Đường Chi Lăng | |
4
|
Hôtellerie provencale | Place du Marché (Quảng trường Chợ) | Khu Hoà Bình |
5
|
Annam | Đường Helgouach | Đường Đoàn Thị Điểm |
6
|
Saigon | Đường Minh Mạng | Đường Trương Công Định |
7
|
Bon Air | -"- | -"- |
8
|
Royal | -"- | -"- |
9
|
Võ Quang Tiềm | Đường Annam | Đường Nguyễn Văn Trỗi |
STT
|
HIỆU ĂN
|
VỊ TRÍ CŨ
|
VỊ TRÍ HIỆN NAY
|
1
|
Au chat botté | Place du Marché (Quảng trường Chợ) | Khu Hoà Bình |
2
|
Chic Shanghai | -"- | -"- |
3
|
Dan Sanh | -"- | -"- |
4
|
La Dauphinoise | -"- | -"- |
5
|
La mascotte | -"- | -"- |
6
|
Le cabaret | -"- | -"- |
7
|
Le Mékong | -"- | -"- |
8
|
Lila Dena | -"- | -"- |
9
|
Au sans souci | Đại lộ Pierre Pasquier | Đường Hồ Tùng Mậu |
10
|
La rotonde | Saint Benoit | Khu phố Chi Lăng |
11
|
La Savoisienne | đầu đèo Pren | trên đồi Robin |
Nhà hàng La rotonde
|
|
Thực đơn nhà hàng
lanbian Palace ngày 2-11-1926
|
Du khách ham thích khiêu vũ đến các vũ trường:
STT
|
TÊN VŨ TRƯỜNG | VỊ TRÍ CŨ | VỊ TRÍ HIỆN NAY |
1 | Au chat botté | Place du Marché | Khu Hoà Bình |
2 | La lune | -"- | -"- |
3 | La croix du Sud | Maréchal Foch | Đường 3 tháng 2 |
4 | L' ambiance | Duc de Long Mỹ | Đường Thủ khoa Huân |
5 | Le cabaret | Général Leclerc | Đường Trần Quốc Toản |
6 | Night Club | Rue des Saigonnais | Đường Yên Thế |
STT | TÊN RẠP CHIẾU BÓNG | VỊ TRÍ CŨ | VỊ TRÍ HIỆN NAY |
1 | Eden | Đường Đồng Khánh | Đường Nguyễn Chí Thanh |
2 | Langbian | Đường Cầu Quẹo | Đường Phan Đình Phùng |
3 | Annam | Đường Annam | Đường Nguyễn Văn Trỗi |
4 | Le colibri | Đường Van Vollenhoven | Đường Phan Bội Châu |
ùng quanh Đà Lạt, trừ vùng dành cho muôn thú trú ẩn, là một trong những vùng đất săn bắn tuyệt vời nhất ở châu Á, có thể so sánh với một vài vùng ở Tây Phi. Cao nguyên Di Linh nổi tiếng nằm trên độ cao 900 - 1.000m là vùng săn bắn có đường giao thông thuận tiện nhất ở Đông Dương và là thiên đường dành cho những tay thợ săn.
Thực vật rất phong phú và đa dạng góp phần tạo cho phong cảnh khác lạ, có khi mang dáng dấp phương Đông, có khi có thể so sánh với thắng cảnh ở châu Âu như vùng rừng núi Jura (Giuy-ra) hay Vosges (Vốtx-giơ), có khi gợi nhớ đến một vùng đất ở châu Phi: những cánh đồng, đồi núi bao la mọc đầy cỏ, xen vào giữa là những thân cây mảnh khảnh, hậu quả của những vụ đốt rừng hằng năm.
Đây là quê hương của cọp và bò rừng. Những loài thú nhỏ cũng rất phong phú. Trên đồi thông có thể gặp gà rừng. Dưới thung lũng, ven bờ suối, từ tháng 9 đến tháng 12, vịt trời xuất hiện. Trong thung lũng sông Đa Nhim, giữa Phi Nôm và Đrăn, những người thợ săn dễ bắt gặp những đàn gà rừng và công.
Trong những vùng yên tĩnh, người Thượng và những tay thợ săn có thể dùng mồi và súng săn hạ sát nhiều con cọp (Felis tigris) trong một ngày. Một con cọp lớn cao 1,05m và có chiều dài 1,9m.
Ở Lang Bi-an, dựa vào hình dáng của sừng, người ta phân biệt 2 loại bò rừng: Bos Gaurus và Bos Banteng.
Bò rừng Bos Gaurus là loại bò có bộ lông màu nâu đậm, từ bàn chân đến đầu gối màu trắng hay vàng đậm, đầu rất to. Con đực cao đến 2,05m, sừng dài 80 - 103cm.
Bò rừng Bos Banteng là một loại động vật đẹp, chân nhỏ, lông màu vàng hay màu hung đỏ với những vết trắng hay xám từ móng chân đến đầu gối, sừng dài 80 - 92cm. Bò rừng Bos Banteng chạy nhanh hơn bò rừng Bos Gaurus và rất khó đến gần.
Ngoài cọp và bò rừng, những người thợ săn còn gặp voi, beo, gấu, nai, heo rừng và thỉnh thoảng tê giác.
Voi châu Á (Elephas indicus) nhỏ hơn voi châu Phi, không cao quá 3m, nhưng đầu lại to hơn. Những con voi có ngà nặng 10kg rất hiếm.
Gấu đeo vòng hay gấu Ma-lai-xi-a (Helarotos malayennus raffles) không cao quá 75cm, có bộ lông đen tuyền và rất rậm. Dưới cổ có một vòng màu da cam (gấu đực) và màu trắng (gấu cái). Hàm răng có những chiếc nanh rất mạnh dùng để moi tổ ong trong bọng cây.
Tê giác một sừng (Rhinoceros unicornis) cao 2m, có da dày, sừng dài không quá 30 - 45cm, là động vật hiếm.
Họ nai rất đông.
Nai Aristote (Cervus aristotelis) giống như nai ở châu Âu, gạc có 4 nhánh.
Lều săn | Cọp |
Bò rừng
|
Voi
|
SỪNG NAI VÀ BÒ RỪNG
|
Nai đực vùng đầm lầy (C. Porcinus annamiticus) cao 0,72m, có bộ lông ngắn và xám, màu nâu đậm, gạc dài 62cm. Nai cái có thân hình nhỏ, lông màu hung đỏ, đứng ở xa dễ nhầm với hươu.
Hươu sao
|
Cheo (Trajule javanicus) là một loại động vật nhỏ, cao không quá 20cm, có bộ lông màu nâu hơi đỏ. Loại cheo, cả đực lẫn cái, đều không có gạc.
Heo rừng có 2 loại: một loại có ít lông, thường thấy ở độ cao 1.000m và một loại hai bên má có những vạch màu trắng, nặng 150kg hay hơn nữa.
Về các loài thú nhỏ, có thể kể: thỏ, gà gô sống cô đơn hay từng đôi, công, gà rừng, vịt trời.
Các loài chim cũng rất nhiều, hấp dẫn những nhà khoa học muốn sưu tầm chim.
Phong cảnh đẹp đẽ, nhiệt độ ôn hoà và muỗi tương đối ít giúp cho những chuyến đi săn thật thú vị.
*
Họ biết dùng mũi tên tẩm thuốc độc để giết cọp, beo.
Trong những khu rừng nhỏ tiếp giáp với đồng cỏ, người Thượng dùng chó, dáo mác để săn nai và heo rừng.
Ở châu Phi, những tháng khô hạn kéo dài bắt buộc thú rừng tập trung về các ao hồ hay những vũng nước. Ở đây thật tốn công vô ích nếu rình thú rừng ở những nơi đọng nước. Tốt nhất phải nắm vững mùa săn. Mùa săn nai thích hợp nhất là từ tháng 2 đến tháng 5. Trong thời gian này, mưa rất ít và có gió mùa Đông Bắc, lửa đốt rẫy tạo nên những vùng đất trống dễ đi lại và nhìn xa.
Trong mùa nóng (từ tháng 6 đến tháng 10) và sau mùa mưa (từ tháng 11 đến tháng 1), người ta săn cọp và voi, nước chảy xiết và dâng tràn bắt buộc những người thợ săn băng rừng hay đổi hướng đi. Nai chỉ xuất hiện ở những vùng có thảm cỏ thấp, trong khi voi, bò rừng lại thích sống ở những nơi có cỏ cao, rậm rạp.
Vùng đất này thật tuyệt vời, nhưng trong mùa săn tới sẽ không còn thú rừng nếu không đốt cỏ và thảm cỏ không mọc lại.
u khách đến từ đồng bằng, quen với cây cỏ miền nhiệt đới, không khỏi ngạc nhiên trước cảnh rừng thông trùng điệp. Thông trên cao nguyên Lang Bi-an phần lớn là thông 3 lá. Tên khoa học đầu tiên của thông 3 lá (Pinus kesiya Royle ex Gordon) đã được hội nghị quốc tế công nhận là tên chính thức. Auguste Chevalier (Ô-guýtx-tơ Sơ-va-li-ê) gọi thông 3 lá là Pinus langbianensis, nhiều tư liệu sử dụng tên Pinus khasya Royle. Khasya là tên một làng ở miền Bắc Ấn Độ, dưới chân dãy Hy Mã Lạp Sơn (Himalaya).
Thông 3 lá mọc ở độ cao từ 1.000 đến 1.800m. Tuy nhiên, loài thông này cũng có thể mọc được ở độ cao thấp hơn từ 800 đến 1.000m trên cao nguyên Di Linh.
Thông 3 lá có diện tích lớn nhất trong số các loài thông ở nước ta, mọc ở Hà Giang, Sơn La, Gia Lai, Công Tum,... nhưng nhiều nhất là trên cao nguyên Lang Bi-an.
Cây cao 20 - 35m, nhưng đường kính thân cây ít khi vượt quá 70cm. Các cây thông 3 lá có đường kính trên 50cm rất hiếm, chỉ chiếm 2% quần cư, trong khi các cây có đường kính từ 10 đến 50cm chiếm tỷ lệ 98%. Lá nhỏ, đều như cây kim, màu xanh sẫm, chỉ có 1 gân nhỏ. 3 lá kim mọc cụm trong 1 bẹ. Trái hình chóp nón dài khoảng 5 - 10cm, rộng 4 - 5cm. Trái chín trên cây, phát tán những hạt trần nhỏ màu nâu nhạt có cánh dài nhờ gió có thể bay đi rất xa. Rễ có nấm cộng sinh, ưa đất tơi xốp, hơi chua (pH 4,5 - 5) có khả năng sống được trên đất nghèo dinh dưỡng.
Thông 2 lá | Thông 3 lá |
Tiêu bản
thông 2 lá dẹt và thông 5 lá
|
Thông đỏ
|
Cách đây hàng nghìn năm, rừng kín lá rộng thường xanh bao phủ mặt đất, chưa có rừng thông. Vào kỷ Crê-ta, cuối kỷ đệ nhị, những cây thông đầu tiên xuất hiện ở châu Âu. Ở Đông Dương, không rõ thông xuất hiện trước hay đầu kỷ đệ tam.
M. Schmid nêu ra giả thuyết: “Những đại diện của các họ tùng loại khác (trong đó có họ thông) tuồng như xuất phát từ những yếu tố di cư đã theo các đỉnh núi nối tiếp từ Vân Nam đến Đà Lạt. Sự di cư ấy đã ngưng lại ở phía Tây Nam, theo châu thổ sông Cửu Long. Vì vậy các loại do quan hệ Hy Mã Trung Hoa chi phối không vào được quần sơn Cardamomes, dọc theo vịnh Thái Lan”. [10, 70]
Thông là cây ưa sáng hoàn toàn, có thể mọc trên đất tương đối phì nhiêu và sâu nhưng rất ít khi gặp thông nơi đây vì các loài thực vật khác tăng trưởng mạnh hơn lấn át. Ngược lại, trong những vùng đất xấu, thông không còn sợ các loài thực vật khác cạnh tranh nên mọc thành rừng.
Thông chỉ mọc được ở sườn dốc, không mọc được ở chỗ úng vì hệ rễ của thông phải có nấm cộng sinh mới sinh trưởng tốt được. Nấm cộng sinh ưa đất tơi xốp, thoáng ráo, thoát nước.
Ngày xưa, rừng rậm bao phủ Đà Lạt nhưng vì nạn phá rừng, đốt nương làm rẫy đã làm cho nhiều ngọn đồi trên cao nguyên trơ trụi. [25, 29 - 30]
*
Đà
Lạt còn có thông 2 lá, thông 5 lá, thông 2 lá dẹt, thông đỏ với số lượng
rất ít.Thông 2 lá (Pinus merkusii) do Jungh (Gion) và de Vries (đơ Vri) phát hiện ở Sumatra (nước In-đô-nê-xi-a) vào cuối thế kỷ XIX. Merkus ( Mẹc-cuýtx) là tên của viên toàn quyền người Hà Lan.
Cây cao khoảng 30m, đường kính có thể đạt 1,5 - 1,6m, đôi khi tới 2m. Vỏ thân có vết nứt sâu và xù xì hơn thông 3 lá. Lá dài hơn lá thông 3 lá và màu xanh lợt hơn. 2 lá mọc chung trong 1 bẹ. Trái, hột lớn hơn thông 3 lá.
Thông 2 lá còn gọi là thông nhựa, được xếp vào loài thông có sản lượng nhựa cao nhất thế giới.
Thông 5 lá (Pinus dalatensis) được bà Y. de Ferré (Y. đơ Phe-rê) - Giám đốc Viện Khảo cứu Lâm học Toulouse (Tu-lu-dơ) ở Pháp chuyên về họ Thông - đặt tên và mô tả năm 1960.
Thông 2 lá dẹt ban đầu mang tên khoa học Pinus krempfii. M. Krempf (M. Krăm) là một nhà thực vật học người Đức đã thu mẫu vật thông 2 lá dẹt ở thượng nguồn Sông Mao (1.350m). Về sau, A. Chevalier lấy tên Ducamp (Đuy-căm) - người tổ chức Cục Lâm nghiệp ở Đông Dương - đặt cho loài thông này tên mới: Ducampopinus krempfii (Lec.) A. Chev.
Đây là loài thông cổ quý hiếm. Thông 2 lá dẹt cao khoảng 30m, đường kính có thể đạt 1,5 - 1,6m, đôi khi tới 2m. Lá dẹt.
Thông đỏ (Taxus baccata var. wallichiana (Zuce) Hooks) thuộc họ Thanh tùng (Taxaceae) là loài cây dược liệu quý hiếm. Lá được dùng để trị hen suyễn, viêm phế quản, nấc, chữa tiêu hoá không bình thường.
Taxol chiết xuất từ thông đỏ được dùng để chữa trị ung thư buồng trứng, vú, đầu, cổ,... [7, 21]
Họ Hoà Thảo (Gramineae) và họ Lát (Cyperaceae) chiếm diện tích lớn nhưng không hấp dẫn. Họ Lan (Orchidaceae) rất đặc biệt về màu sắc và hình dáng. Có thể kể lan bò cạp (Renanthera Evrardii Guillaum.) với hàng trăm hoa dài hơn 10cm, huyết nhung (Renanthera Inschootiana Rolfe) màu đỏ như máu, tuyết ngọc (Coelogyne psectrantha Gagn.) trắng như tuyết, lan Ceratostylis teres nhỏ xíu với cánh hoa dài 2 hay 3mm, còn nhỏ hơn nữa là cánh hoa lan Oberonia dalatensis dài khoảng 2mm,...
Hoa lan trang trí là những loài hoa màu sắc rực rỡ, đẹp diệu kỳ được những người chơi hoa săn tìm. Nếu Phajus (hạc đỉnh, tuý ông,...), Paphiopedilum (vệ hài, vân hài,...), Phalaenopsis (hồ điệp,...) mọc dưới đất thì nhiều loài hoa lan lại mọc chơi vơi trên cành cao của những cây to, thường khó leo: Dendrobium (kim điệp, long tu, thuỷ tiên, ý thảo,...), Bulbophyllum (lọng tán,...), Cirropetalum, Ceratostylis, Cymbidium (bạch lan, hồng lan, hoàng lan, thanh lan, hồng hoàng, bích ngọc,...).
3 loài hoa lan mang tên Đà Lạt: Dendrobium dalatense, Eria dalatensis, Oberonia dalatensis và 2 loài hoa mang tên Lang Bi-an: Dendrobium langbianense, Oberonia langbianensis. [14, 1023 - 1066; 32, 157 - 273]
Một loài thực vật đáng chú ý khác trên rừng cao là cây dương xỉ. Loại cây này rất đa dạng và phong phú, mọc dưới tán cây hay trong vùng đầm lầy, trên tảng đá hay vỏ cây, cộng sinh và tạo thành ổ dương xỉ với những chiếc lá dài.
Tại
những nơi ẩm ướt, cây trường lệ (Drosera) có lá đầy lông bắt các
côn trùng nhỏ và cây bình nước (Nepenthes) có hình ống điếu. Khi
côn trùng bị hấp dẫn chui vào bẫy, chìm vào một chất lỏng trong cây, nắp
đậy lại, cây “ăn thịt” rất kỳ lạ!
Về
đơn tử diệp có các cây thuộc họ Commelinaceae (Rau Trai),
Amaryllideae (Lan Huệ),...Về song tử diệp có nhiều cây trang trí thuộc nhiều họ. Cao nguyên không có những cây lớn thuộc họ Đậu (Leguminosae) tô điểm cho rừng nhiệt đới. Các cây nhỏ thuộc chi Cassia (muồng), Indigofera (chàm), Crotalaria (sục sạc),... mang những cánh hoa đẹp. Cây hoa mua thuộc họ Mua (Melastomaceae) với những đoá hoa màu tím nhạt thường nở vào đầu mùa mưa. [46, 22]
Năm 1914, chiến tranh thế giới lần thứ nhất bùng nổ. Lúc bấy giờ, Hà Lan chiếm độc quyền sản xuất quinin - phương thuốc duy nhất chữa bệnh sốt rét. Yersin gieo thử hạt canh-ki-na ở Suối Dầu và Đăng Kia. Ông gặp thất bại hoàn toàn ở Suối Dầu, nhưng ở Đăng Kia cần phải tốn nhiều công sức.
Năm 1917, Yersin trồng canh-ki-na ở Hòn Bà - một ngọn núi gần Suối Dầu. Lúc đầu cây tăng trưởng tốt nhưng về sau chết dần vì đất đai không thích hợp.
Tháng 7 năm 1923, ông mang những cây canh-ki-na tốt nhất ở Hòn Bà về trồng ở Đrăn và Djiring.
Lo ngại cao độ quá thấp ở Đrăn và Djiring sẽ làm giống Cinchona legeriana bị thoái hoá nhanh, bác sĩ Alexandre Yersin và André Lambert (Ăn-đrê Lăm-be) lập một vườn ương hạt giống cây canh-ki-na trên cao nguyên Lang Bi-an nhỏ (Petit Langbian, Xuân Thọ ngày nay) ở độ cao khoảng 1.550m.
Từ năm 1925, những cây canh-ki-na mang từ Đrăn lên được trồng tại một nơi ẩm thấp nên đến năm 1930 phải dời đến một vị trí mới. Cây trồng với khoảng cách 5m x 5m thành 20 hàng, mỗi hàng 20 gốc. Đến tháng 6-1934, trừ vài cây bị nai gậm phá, tỷ lệ cây chết là 1%. 22% cây canh-ki-na bị bệnh nặng, khoảng 12% bị bệnh nhẹ, tỷ lệ này rất thấp nếu so sánh với những cây trồng ở nơi khác. Vết bệnh hầu hết xuất hiện ở gần cổ rễ cây sát mặt đất.
Để tuyển chọn giống, người ta chọn hạt giống của 10 cây tốt nhất trồng ở trạm Lang Hanh (Djiring)
và gieo thành 10 lô khác nhau ở cả Djiring và Lang Bi-an nhỏ. Sau đó, cây con được trồng trong 10 khu vườn xen vào giữa những hàng cây muồng vàng (Crotalaria anagyroides) được cắt hằng năm để làm phân xanh. Mặc dầu trồng theo hướng Bắc - Nam, cây cũng chống chịu được gió khá tốt trong những năm đầu. Trên những vườn cây trồng vào tháng 7 năm 1930 với khoảng cách 2m x 1m, người ta nhận thấy vào tháng 5 năm 1934, tỷ lệ cây chết rất thấp (10 -12%) và 7% cây bị mắc bệnh hay có triệu chứng khả nghi.
Những cây bị chết thường ở phía dưới vườn nằm trên sườn đồi rất dốc, trong khi cả vườn đều bằng phẳng.
Cây canh-ki-na mắc bệnh hầu hết đều ở giữa vườn, nơi đất xấu, cây tăng trưởng yếu. Trên vùng đất bằng, tỷ lệ cây chết không vượt quá 2 - 3%.
Những cây trồng từ năm 1930 được bón phân xanh vùi trong đất tăng trưởng rất chậm. Mãi đến tháng 5 năm 1934 vẫn chưa tỉa cành. Trồng với khoảng cách 1m x 2m, cây canh-ki-na phát triển thành hình cánh quạt, hệ rễ phát triển kém.
Tháng 6 năm 1934, người ta tỉa cành, loại bỏ những cành thấp, chỉ để lại một số lá nhỏ ở đầu ngọn. Sự tỉa cành rất cần thiết để tạo dáng nhưng phải cắt bỏ 50% cành. Nếu không kể khu đất cây canh-ki-na trồng từ năm 1925 đến năm 1930, cây canh-ki-na trên cao nguyên Lang Bi-an nhỏ tăng trưởng tốt hơn các cây khác cùng tuổi trồng ở các trạm thực nghiệm khác - trừ Lang Hanh - cây mọc khoẻ, thân tròn, vỏ láng. [60, 25 - 28]
rong nửa đầu thế kỷ XX, Paul Champoudry (Pôn Săm-pu-đry) và các kiến trúc sư Ernest Hébrard (Ẹc-nétx Hê-bra), Pineau (Pi-nô), Mondet (Mong-đê) và Lagisquet (La-gi-xkê) đã thiết lập đồ án quy hoạch đô thị Đà Lạt.
Theo Pineau, trong các báo cáo ngày 12-3-1906, Paul Champoudry - Thị trưởng Đà Lạt - đề nghị dành vùng đồi ở phía Bắc cao nguyên Lang Bi-an, phía hữu ngạn suối Cam Ly cho khu vực quân sự và vùng đất phía Nam ở tả ngạn suối Cam Ly cho thành phố trong tương lai. Ở đây sẽ thiết lập khu công chánh và hành chánh, một trung tâm thương mại bên cạnh chợ và ở khu trung tâm phố, khách sạn và giải trí trường. Nhà ga ở gần vị trí của ga ngày nay và kế bên là nhà bưu điện. Đường sá tương đối rộng: đường chính rộng 20m, đường phụ rộng 16m và 12m. Về sau, đồ án này được thực hiện một phần lớn và tạo cơ sở cho thành phố ngày nay. [48, 61]
Năm 1921, kiến trúc sư Ernest Hébrard nhận nhiệm vụ thiết lập đồ án quy hoạch Đà Lạt. Tháng 8 năm 1923, công trình này được hoàn thành.
ĐỒ
ÁN QUY HOẠCH ĐÔ THỊ ĐÀ LẠT CỦA KIẾN TRÚC SƯ ERNEST HÉBRARD
|
||
1. Bể bơi
2. Bệnh viện Việt Nam 3. Bệnh viện Pháp 4. Câu lạc bộ thể thao 5. Chợ 6. Chùa 7. Dinh Thị trưởng 8. Đài vô tuyến điện 9. Khách sạn 10. Ngân hàng |
11. Nghĩa địa tạm thời
12. Nhà nghỉ mát 13. Nhà thờ 14. Phủ Cao ủy 15. Phủ Toàn quyền 16. Phủ Thủ hiến Nam Kỳ 17. Sân cù 18. Sân quần vợt 19. Suối cải tạo 20. Thủy tạ |
21. Tòa Thị chính 22. Tổng kho tiểu công nghiệp 23. Trại bảo an 24. Trường học 25. Trường nam trung học 26. Trường nữ trung học 27. Văn phòng 28. Nhà bảo tàng 29. Viện điều dưỡng |
Tư tưởng chủ đạo của Hébrard là tập trung vùng dân cư xung quanh hồ. Ở phía Bắc thành phố là khu quân sự. Khu bệnh viện trải dài từ đường Phạm Ngọc Thạch đến đường Trần Bình Trọng. Khu Toàn quyền nằm ở vị trí Học viện lục quân ngày nay gồm có 7 toà nhà dành cho Phủ Toàn quyền và các bộ: kinh tế, công chánh, tài chánh, nông nghiệp, thuỷ lâm,... Khu hành chánh nằm dọc đường Trần Phú ngày nay với quảng trường, tháp đồng hồ, toà thị chính, kho bạc, nhà bưu điện, sở cảnh sát, thư viện, hội trường, rạp chiếu bóng, sở cứu hoả, bảo tàng dân tộc học, động, thực vật,...Khu vui chơi, giải trí ở khu vực giữa hồ và khách sạn Langbian Palace với hội trường, sòng bạc, quán cà phê, phòng đọc sách, sân quần vợt, vườn hoa,... Khu thể thao gồm có sân vận động, bể bơi nằm ở phía Bắc hồ Xuân Hương. Hai vườn hoa được bố trí ven hồ, trong khu vực Nhà nghỉ công đoàn và gần góc đường Bà Huyện Thanh Quan và Đinh Tiên Hoàng. Phía Nam hồ Than Thở là khu đất dành cho đồn điền của Ngân hàng kỹ nghệ Trung Hoa. Đường Đà Lạt - Sài Gòn đi qua ngả Khe Sanh. [33; 57, 7 - 14]
Mười năm sau, năm 1933, kiến trúc sư Pineau trình bày một công trình nghiên cứu chỉnh trang và mở rộng Đà Lạt thực tiễn hơn Hébrard. Ông cố gắng duy trì vẻ đẹp của các danh lam thắng cảnh ở Đà Lạt, dành một khu vực rộng lớn hình cánh quạt mà tâm điểm là Đà Lạt và tỏa ra đến tận các đỉnh núi Lang Bi-an cho khu bất kiến tạo (zone non oedificandi) và đề nghị thành lập Vườn quốc gia. Thành phố vây quanh hồ, từ Tây sang Đông Bắc tạo thành một đường vòng cung.
Năm 1940, kiến trúc sư Mondet thiết lập một đồ án quy hoạch và chỉnh trang Đà Lạt. Đồ án của ông trở về với quan niệm cũ của Hébrard là bố trí những vùng dân cư và hành chánh xung quanh hồ. Mặc dù về vài phương diện, nghiên cứu của Mondet rất đầy đủ nhưng đồ án không được duyệt.
*
Một
con đường mòn in dấu chân người, một vùng đồi cỏ trải dài đến tận chân núi
Lang Bi-an, đây đó vài mái nhà sàn, một sự im lặng ngự trị trên một vùng
đất gần như hoang sơ... Đà Lạt như vậy đó vào cuối thế kỷ XIX.
Đến năm 1942, một thành phố xinh đẹp hiện ra với những đường phố rộng rãi, những biệt thự duyên dáng giữa những vườn hoa và thảm cỏ xanh tươi, mặt hồ phẳng lặng. Đà Lạt là một nơi nghỉ mát quan trọng nhất không những của Đông Dương mà cả Viễn Đông.
Rất tiếc, Đà Lạt vượt khỏi giới hạn và phát triển quá mức. Nhiều khu phố được hình thành một cách vội vã và không trật tự. Chánh quyền phải can thiệp. Thành phố cần có quy hoạch và chỉnh trang có uy lực về pháp lý.
Theo Nghị định ngày 2-9-1941, Toàn quyền Decoux (Đơ-cu) giao cho Nha Quy hoạch đô thị và Kiến trúc Đông Dương nghiên cứu và hoàn thành đồ án, đồng thời đề ra biện pháp bảo vệ trong thời gian chờ đợi công bố văn bản pháp quy.
Trong tờ trình ngày 8-12-1942, kiến trúc sư J. Lagisquet - Giám đốc Nha Quy hoạch đô thị và Kiến trúc Đông Dương đã đánh giá Đà Lạt: “Không ai có thể phủ nhận Đà Lạt chiếm một vị trí đặc biệt thuận lợi ở Viễn Đông, khí hậu, danh lam thắng cảnh, tiềm năng phát triển làm cho Đà Lạt thành một nơi được ưu đãi, không nơi nào có thể so sánh được. Đà Lạt có thể và phải trở thành một nơi nghỉ mát lớn ở Viễn Đông”.
Dựa theo ý của kiến trúc sư Pineau, Lagisquet thiết lập đồ án chỉnh trang và phát triển Đà Lạt với những nét chính sau:
- Thành phố không còn giống như một đường thẳng kéo dài từ Đông sang Tây nhưng có chiều sâu hơn và tạo nên một thể thuần nhất.
- Không kéo dài Đà Lạt nhưng tập trung quanh hai trục chính.
- Đà Lạt được mở rộng về hướng Nam, Tây Bắc. Cảnh quan về hướng núi Lang Bi-an được bảo vệ dành cho khu du lịch, rừng núi, khu bất kiến tạo, những khoảng trống, những khu đất dành cho thể thao và trò chơi.
- Trung tâm thành phố ở phía Nam của Hồ Lớn, gồm có giải trí trường, chợ,...
- Khu nhà ở nằm ở phía Tây và phía Đông thành phố.
- Làng của người Việt được hình thành ở phía Tây Bắc, Đông Nam, trên đường dẫn đến Đrăn. Đà Lạt mang tính chất một thành phố - vườn, chung quanh nhà của nông dân hay thợ thủ công là một mảnh vườn.
- Ở ngoại ô thành phố, một vùng đất sang nhượng trải dài về phía Tây Bắc, Đông Nam thành phố và trong tỉnh Lang Bi-an dành cho các nông trại trồng rau, chăn nuôi và sản xuất sữa.
Ngoài ra, Đà Lạt còn mang tính chất đặc biệt: thành phố giáo dục và trung tâm thanh niên. Vùng dành cho xây dựng các trường học được rải đều khắp thành phố tuỳ thời cơ thuận lợi. Những ngôi trường chính được đầu tư để phát triển. Những khoảng đất trống rộng lớn được dành cho sân vận động, sân cù, các trò chơi thể thao,... Sân bay cũ được dùng để cắm trại.
Lagisquet chia khu du lịch thành hai khu: vùng Tây Bắc là khu bảo tồn thực vật, không được khai thác, để giữ cảnh quan núi Lang Bi-an; vùng lâm nghiệp cho phép chặt gỗ thường xuyên nhưng phải tôn trọng thắng cảnh và khai thác hợp lý. Khu du lịch, lâm nghiệp, thể thao chiếm 3/5 diện tích thành phố Đà Lạt (khoảng 200 km2).
Mặc dù Đà Lạt không phải là một thành phố công nghiệp vì đất đai và khoáng sản nghèo nàn, Lagisquet cũng đề ra một vùng công nghiệp gần đường giao thông và xa vùng trung tâm để tránh ô nhiễm môi trường.
ĐỒ
ÁN CHỈNH TRANG VÀ PHÁT TRIỂN ĐÀ LẠT CỦA KIẾN TRÚC SƯ J. LAGISQUET
|
|
1. Nhà liên kế và biệt
thự song lập 2. Làng người Việt 3. Biệt thự 4. Toà thị chính 5. Khu khách sạn 6. Ca-si-nô, câu lạc bộ 7. Văn phòng Chính phủ trung ương 8. Dinh Toàn quyền 9. Nhà Quản đạo 10. Khu Thương mại người Âu 11. Khu Thương mại người Việt 12. Chợ mới |
13. Sở Địa dư 14. Cư xá Công chánh 15. Cư xá Bưu điện 16. Cư xá người Đông Dương 17. Trường học 18. Khu bệnh viện 19. Khu thể thao – sân vận động 20. Trại thanh niên 21. Trung tâm văn hoá 22. Bảo tàng Dân tộc học 23. Khu bất kiến tạo 24. Khoảng trống |
TRUNG
TÂM ĐÀ LẠT THEO ĐỒ ÁN CỦA KIẾN TRÚC SƯ J. LAGISQUET
Tiền cảnh : Giải trí trường, câu lạc bộ, vườn hoa
Trung cảnh : Văn phòng Chính phủ trung ương và bến đậu xe
Hậu cảnh : Trường trung học Yersin |
Tiền cảnh : Văn phòng Chính phủ trung ương
Trung cảnh : Giải trí trường và câu lạc bộ; bên trái : dinh Toàn quyền
và vườn hoa
Hậu cảnh : Khách sạn mới, trung tâm văn hóa, khách sạn Langbian Palace, nhà thờ và chợ mới |
Nước: Một hồ chứa nước ở thượng lưu suối Cam Ly cung cấp nước cho thành phố. Sau đó, nước
được gạn sạch, khử trùng và lọc lại rồi bơm vào các bể chuyển tiếp phân phối cho toàn thành phố. Vấn đề cung cấp nước ở Đà Lạt rất phức tạp vì tính chất thành phố - vườn, phạm vi và địa hình của thành phố. Điện: Nhà máy nhiệt điện hiện cung cấp điện cho khu dân cư thành phố. Sau khi nghiên cứu, những công trình cho phép sử dụng thủy năng đã được tiến hành ở Ăn Krô-ét. Theo dự đoán, hai nhà máy được kết hợp sẽ cung cấp điện cho thành phố đến năm 1970.
Tận dụng vật tư có trong nước, nhà máy Ăn Krô-ét cho phép trong vòng một năm rưỡi nâng công suất từ 800kW lên 1.500kW. Công suất thặng dư giúp một mặt mở rộng mạng lưới điện và mặt khác thiết lập hệ thống ô tô điện và những trạm bơm nước cho vùng trồng rau trong khi chờ đợi xây dựng đập Đa Nhim.
Đường sá giao thông: Về tổng thể, tôn trọng hệ thống giao thông hiện nay và tuỳ khả năng nâng cấp bằng cách tạo đường dốc thấp hơn, mở rộng đường cho phù hợp với phương tiện giao thông. Do đó, cần nới rộng các đường Bác sĩ Yersin (Y-e-xen), Paul Doumer (Pôn Đu-me), Jean O’Neil (Giăn Ô Nây), Albert Sarraut (An-be Xa-rô), Lamartine (La-mạc-ti-nơ) (nay là đường Trần Phú, Trần Hưng Đạo, Hoàng Văn Thụ, Thống Nhất, Bà Huyện Thanh Quan).
Đường lớn nhất ở Đà Lạt là đường Bác sĩ Yersin, có hai mặt đường rộng 9m cho xe ô tô, xen vào giữa là hàng cây rộng 3m, lề đường rộng 4,5m.
Đường Lamartine đi vòng quanh bờ hồ có một đường chính rộng 12m và hai đường phụ dành cho người cưỡi ngựa và đi xe đạp.
3 trục đường chính sau đây được nâng cấp để giúp cho giao thông dễ dàng:
1. Đường Graffeuil (Gráp-phơi), Doumer, Yersin, O’Neil (nay là đường Hùng Vương, Trần Hưng Đạo, Trần Phú, Hoàng Văn Thụ);
2. Đường Robin (Rô-ben), Albert Sarraut, Cam Ly Hạ (nay là đường Quang Trung, Thống Nhất, Phạm Ngũ Lão);
3. Đường Pasteur (Pa-xtơ) (nay là đường Hai Bà Trưng) dẫn đến ấp Đa Thành và Đăng Kia.
Hầu hết các ngã tư cũng được thay đổi.
Để phục vụ cho các cư xá mới Cam Ly, Jean Decoux (Giăn Đơ-cu), Saint Benoit (Xen Bơ-noa), Lagisquet dự kiến mở những con đường mới với chiều rộng thay đổi tuỳ theo địa hình.
Lagisquet cũng dự kiến xây dựng những bãi xe ô tô chủ yếu ven hồ, gần giải
trí trường và câu lạc bộ, chợ mới và khu thương mại.
Vườn hoa: Trước dinh Toàn quyền, Lagisquet thiết
kế một công viên lớn kéo dài đến tận bờ hồ. Trước trung tâm văn hóa và thư
viện có một lối đi với nhiều bậc cấp. Trung tâm hành chính ở gần bờ hồ hướng về vườn hoa trên bờ Bắc.
Giữa
khu giải trí trường và câu lạc bộ, phía sau giải trí trường, Lagisquet dự
kiến thiết lập một vườn hoa dành cho thiếu nhi.
Vườn
hoa cũng được bố trí trước nhà ga và hai bên bờ suối Cam Ly.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét