Ngày Quốc Kỳ cho nước Việt Nam
Quý vị độc giả thân mến, trong
thời đại toàn cầu hóa hiện nay, mọi giá trị nhân văn – khai phóng nhằm
củng cố và phát triển bản sắc quốc gia phải được ưu tiên thực hiện, có
như thế thì chúng ta mới không bị bão hòa trong cơn lốc hội nhập quốc
tế. Bản sắc ở đâu nếu không phải là những tập quán sinh tồn và di sản
văn hiến từ xưa để lại ? Hay là phải khoanh tay nhìn chúng bị mai một,
bị phá hủy thô bạo ?… Vì những lẽ này, chúng tôi mạo muội đề xuất một
thời điểm để tôn vinh lá quốc kỳ Việt Nam, nó thể hiện sự tri ơn tiền
nhân bằng sự kiện văn hóa và cũng đóng góp cho việc gìn giữ một biểu
tượng quốc gia. Hy vọng sau bài viết này, quý độc giả sẽ phản hồi quan
điểm riêng và những ý tưởng khác nữa, BBT TTXVA trân trọng và sẵn sàng
sẻ chia mọi khúc mắc !
Trước khi bài viết này được đưa ra, TTXVA
đã liên tục đăng tải những bài viết của những tác giả khác nhau trên
tinh thần khách quan – trung thực – đa chiều, có người liệt kê toàn bộ
quá trình tạo nên lịch sử quốc kỳ Việt Nam (tuy rất ngắn ngủi nhưng có
ích cho công cuộc tự chủ của đất nước) và cũng có người tìm cách phục
sinh những mẫu cờ dựa trên tư liệu sẵn có… Phần nhiều, các quan điểm
phản hồi rất khác biệt nhau, thậm chí đối lập nhau, nhưng trên nhất thì
thấy rằng, ở cộng đồng chúng ta chưa hề có văn hóa ứng xử với quốc kỳ,
tất cả chỉ dựa vào thiên kiến chủ quan. Có người sùng bái quốc kỳ một
cách mù quáng, có người ra sức mạt sát những lá quốc kỳ mà họ ghét, lại
có người ngập chìm trong các tư liệu về quốc kỳ và trở nên ngộ nhận…
Những hành vi đó không thể coi là văn hóa ứng xử, mà đáng gọi là sự thô
vụng, kém văn minh. Nội hàm lá cờ là thứ dấu hiệu về chính trị – văn hóa
– lịch sử, nó được trừu tượng hóa bằng hình vẽ và màu sắc, thế nhưng
khôi hài là nhiều người vẫn cho đó như là… bát hương và phải khấn lạy sì
sụp. Không hẳn, lá cờ là thứ vật dụng không hơn gì ngôi nhà chúng ta ở,
gia đình chúng ta gắn bó và ngôi trường chúng ta theo học, nó thân
thuộc với chúng ta và không thể đứng trên chúng ta được. Tại các cộng
đồng có văn hóa hiệu kỳ lâu đời, tất cả mọi người đều tự do thiết kế cờ
theo sở thích riêng và không ai mạt sát hay thóa mạ nhau vì nó. Nan đề
của nước chúng ta là không hề biết tới hoặc không sao đạt được tập quán
đó, cho nên bao lâu rồi vẫn đắm chìm trong những tranh luận thiếu chiều
sâu. Quốc kỳ là một trong các dấu hiệu đại diện cho quốc gia, tự nó
không lệ thuộc quan điểm của bất cứ cá nhân hay tổ chức nào và tất
nhiên, dù ý thức hệ của quốc dân có khác biệt nhau thì quốc kỳ không
liên quan gì đến những tranh cãi của họ, nó đứng cao hơn ý thức hệ và
không ai có quyền phủ định nó chỉ vì bất đồng ý kiến.
Từ khoảng cuối thế kỷ XIX trở đi, khi mà
các đế chế lớn đã phân rã và nhiều quốc gia nhỏ hơn hình thành, sự vun
bồi không gian văn hóa – chính trị riêng trở nên cấp thiết. Chủ yếu tại
châu Âu và lan nhanh sang châu Mỹ, châu Đại dương, các quốc gia thường
lấy một sự kiện chính trị – lịch sử nào đó làm dấu mốc tôn vinh lá cờ
nước mình, đó có thể là ngày lập quốc (Albania, Colombia, Thụy Điển…),
ngày ấn định mẫu quốc kỳ (Úc, Canada, Romania…), ngày diễn ra một biến
cố lịch sử (Argentina, Đan Mạch, Philippines…)… Trong Anh ngữ, có hai
cách gọi sự kiện này : Flag Day (tại các nước có văn hóa hiệu kỳ thì sự kiện hướng tới mọi lá cờ và không nhất thiết phải là quốc kỳ), Day of National Flag
(chỉ tôn vinh quốc kỳ). Cộng đồng Việt Nam xưa nay không có văn hóa
hiệu kỳ, các lá cờ thường để trang trí hoặc khu biệt trong các hoạt động
quân chủ – quân sự, cho nên cách gọi thứ hai có lẽ hợp hơn cả. Đây là
một sự kiện chính đáng, có tính cách văn hóa và khả năng liên đới cộng
đồng cao, tự nó tạo ra sự cảm thông và hiểu biết giữa người với người,
giữa hậu thế với tiền nhân, hoàn toàn vui vẻ và không hề chịu sự chi
phối của tư duy chính trị.
Trong ý nghĩa của tên gọi Ngày Quốc Kỳ,
buộc chúng ta phải rà soát lịch sử xem sự kiện nào gắn liền với quốc kỳ
để mà đánh dấu. Đây, sự liệt kê quốc kỳ của những chính thể từng đại
diện hoặc tự xem là đại diện cho cộng đồng Việt Nam :
Liệt kê này
không quan tâm đến những chính thể hoặc dự án quốc gia chưa từng đại
diện cho cộng đồng Việt Nam. Từ liệt kê mà nhận định, đa số các lá cờ
tại Việt Nam đều chú trọng sao (star) và sọc (stripe) – màu đỏ (red) và
màu vàng (yellow), vì thế có những khi chúng tôi không thể nhịn được
cười, nhiều cá nhân hay tổ chức lâu nay thường dựa vào ý thức hệ để mạt
sát kẻ đối lập mình. Thực chất thì lối tư duy của bên này hay bên kia
đều giống nhau hoặc không hơn nhau, vậy thì tranh cãi để làm gì và vì
cái gì ? Thật thiển cận và lố bịch !
Xét thấy, Liên bang Đông Dương
(Union Indochinoise, 1887 – 1953) chỉ là một liên minh gồm 6 lãnh thổ
(Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ, Quảng Châu Loan, Lào, Kampuchea) do Đế quốc
thực dân Pháp (Empire colonial français) ủy trị và tất nhiên nó không
hoàn toàn mang tính cách thể chế ; vậy nên, lá cờ của Liên bang Đông
Dương không phải quốc kỳ chính thức. Chỉ đến sự kiện hoàng quân Nhật Bản
gạt Pháp khỏi Đông Dương ( 9 tháng 3 năm 1945) và đưa lãnh thổ này vào
không gian Thịnh vượng chung Đại Đông Á (大東亜共栄圏), về căn bản Việt Nam
mới là nước độc lập, có chủ quyền. Vì lẽ rằng, trước khi cuộc đảo chính
diễn ra, chính phủ Nhật Bản đã kêu gọi các nước Đông Dương tuyên bố độc
lập, nhằm hợp pháp hóa ảnh hưởng của Nhật. Vì lẽ rằng, vào ngày 11 tháng
3 cùng năm, Hoàng đế Bảo Đại đã tuyên chiếu Việt Nam độc lập (quốc danh
: Đế quốc Việt Nam), trước sự chứng kiến của Nội các
đại thần và đại diện chính phủ Nhật Bản. Vì lẽ rằng, ngày 13 tháng 3 năm
1945, quốc vương Norodom Sihanouk đã tuyên bố Kampuchea độc lập và đến
ngày 8 tháng 4 thì vua Sisavang Vong cũng thực hiện việc đó với Lào ;
Kampuchea thậm chí còn công bố mẫu quốc kỳ mới, mẫu quốc kỳ sử dụng thời
thuộc Pháp bị phế bỏ.
Tại Việt Nam, ngày 17 tháng 4, ông Trần
Trọng Kim được Hoàng đế Bảo Đại ủy nhiệm chức Thủ tướng và thành lập tân
Nội các, từ đây nước Việt Nam trở thành chính thể quân chủ lập hiến.
Ngày 19 tháng 8 cùng năm, tổ chức Việt Minh (Việt Nam Độc lập Đồng minh
Hội) tiến hành cuộc đảo chính không đổ máu (thường được gọi là Cách mạng Tháng Tám, hay Cách mạng Mùa Thu)
và giành được chính quyền từ cấp trung ương đến địa phương ; sự kiện
ông Hồ Chí Minh đọc tuyên ngôn độc lập ngày 2 tháng 9 cùng năm được coi
là dấu mốc hình thành chính thể Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (cách gọi khác là Việt Nam Dân quốc).
Nghĩa là, trước khi chính thể Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thành lập, đã
có một chính thể đại diện hợp pháp cho quốc gia – quốc dân Việt Nam và
có tới hai kiểu thiết chế chính trị (ban đầu là quân chủ chuyên chế và
sau là quân chủ lập hiến). Như thế, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không phải chính thể đầu tiên của nước Việt Nam hiện đại độc lập và có chủ quyền, lá cờ đỏ sao vàng (hay cờ sao mai) cũng không nên được xem là mẫu quốc kỳ đầu tiên.
Thời kỳ Đế quốc Việt Nam tuy chỉ tồn tại trong mấy tháng nhưng đã có tới hai mẫu quốc kỳ : Cờ long tinh (11.3 – 17.4.1945), cờ quẻ Ly
(17.4 – 23.8.1945). Lá cờ long tinh (long tinh kỳ / 龍星旗) ra đời vào năm
1920 dưới triều Khải Định (trị vì từ 1916 đến 1925), là hoàng thất kỳ
(皇室旗) của triều Nguyễn (cờ đại diện cho hoàng tộc) và đến ngày 11 tháng 3
năm 1945 thì Hoàng đế Bảo Đại (trị vì từ 1925 đến 1945) ấn định cờ long
tinh đại diện cho nước Việt Nam độc lập, thống nhất và có chủ quyền.
Bởi thế cho nên, sự kiện 11 tháng 3 năm 1945
xứng đáng được xem là dấu mốc tôn vinh quốc kỳ Việt Nam. Vậy, sự kiện
này diễn tiến ra sao và có ý nghĩa thế nào đối với lịch sử nước ta ?
Nhật báo Điện tín – số ra ngày 12 tháng 3 năm 1945 – đưa tin về sự kiện 11 tháng 3.
Ngày 11
tháng 3 năm 1945, tại điện Kiến Trung (kinh thành Huế), trước mặt sáu
Thượng thư Cơ mật Viện (Phạm Quỳnh, Hồ Đắc Khải, Nguyễn Phước Ưng Úy,
Bùi Bằng Đoàn, Trần Thanh Đạt, Trương Như Đính) và đại diện chính phủ
Nhật Bản (đại sứ Yokoyama Masayuki, tổng lãnh sự Konagaya Akira, lãnh sự
Watanabe Taizo), Hoàng đế Bảo Đại đã đọc bản chiếu chỉ tuyên bố Việt
Nam độc lập, nội dung như sau :
Cứ tình
hình chung trong thiên hạ, tình thế riêng cõi Đông Á, chính phủ Việt Nam
tuyên bố từ ngày này Hòa ước Bảo hộ với nước Pháp bãi bỏ và nước Nam
khôi phục quyền độc lập. Nước Việt Nam sẽ gắng sức tự tiến triển cho
xứng đáng một quốc gia độc lập và theo như lời tuyên ngôn chung của Đại
Đông Á, đem tài lực giúp cho cuộc thịnh vương chung. Vậy chính phủ Việt
Nam một lòng tin cậy lòng thành ở Nhật Bản Đế quốc, quyết chí hợp tác
với nước Nhật, đem hết tài sản trong nước để cho đạt được mục đích như
trên.
Khâm thử.
Ngày 27 tháng Giêng năm thứ 20 triều Bảo Đại.
Chiếu chỉ có chữ ký của sáu vị đại thần
và có thể xem là sự chấm dứt những ràng buộc của Pháp đối với chủ quyền
nước Việt Nam. Quốc danh (Đế quốc Việt Nam / 越南帝国) thực chất đã được lưu
hành bán chính thức từ trước và cờ long tinh từ vai trò hoàng thất kỳ
đã trở thành lá cờ quốc gia. Định dạng chuẩn của lá cờ như sau : Kích
thước 1:2, ba sọc ngang – sọc đỏ (#EF4135) nằm giữa hai sọc vàng
(#FFFF00), chiều rộng sọc đỏ bằng ½ chiều rộng cờ.
Tem in hình lá cờ long tinh và con số 11.3.45 nhằm mô tả sự kiện Việt Nam độc lập.
Thực chất của hành động trao trả độc lập
“một cách tự nguyện” cho ba nước Đông Dương là Đế quốc Nhật Bản muốn gồm
thâu sự ủng hộ của mọi tầng lớp dân chúng bản xứ ; ngay từ trước khi
đặt chân vào Đông Dương, Nhật Bản đã tung ra những hứa hẹn cho một xứ sở
độc lập, phồn vinh. Ít nhiều đã có một lượng không nhỏ tin tưởng ; tuy
nhiên, dù “độc lập” nhưng các nước Đông Dương không có thực quyền về
chính trị, mọi hoạt động kinh tế và quốc phòng đều do người Nhật kiểm
soát. Nhưng ý muốn độc quyền cai trị của Nhật Bản tại Đông Dương và toàn
bộ khu vực Đông Á – Tây Thái Bình Dương không theo kịp đà tiến của cuộc
Đệ nhị Thế chiến (1939 – 1945) : Khoảng đầu tháng 5 năm 1945, Đức Quốc
Xã đầu hàng và Đế chế III sụp đổ ; hai trái bom nguyên tử do Không quân
Hoa Kỳ trút xuống Hiroshima (ngày 6 tháng 8) và Nagasaki (ngày 9 tháng
8) đã quật ngã cuồng vọng bá chủ của chính phủ Nhật Bản ; ngày 14 tháng 8
năm 1945, Đế quốc Nhật Bản ký văn kiện đầu hàng và khối Đại Đông Á tiêu
tan. Sự kiện 14 tháng 8 nghiễm nhiên trở thành cơ hội tạo ra một nước
Việt Nam độc lập, thống nhất và có chủ quyền, nhất là không phải chịu
bất cứ thiệt hại nào vì nền độc lập. Đây là trường hợp hy hữu trong lịch
sử Việt Nam cũng như thế giới, cho dù nước chúng ta thuộc về những quốc
gia sớm bị làn sóng thực dân khuất phục và giữa năm 1945 đã xảy ra nạn
đói gây tổn thất nhân mạng quá lớn, nhưng Việt Nam đã tiếp đón lực lượng
Đồng Minh với tư cách một quốc gia có thể chế chính trị tự chủ, có chủ quyền lãnh thổ chứ không phải xứ thuộc địa. Chúng ta biết rằng, trước sự kiện 11 tháng 3 và 14 tháng 8,
đã có nhiều thế hệ người Việt Nam bỏ quên cả tuổi xuân và tính mạng chỉ
vì mưu cầu cho nền độc lập của Tổ quốc. Thiết nghĩ, đấy là vinh hạnh
lớn, vì đương thời hầu hết các nước trên thế giới không có vận may này.
Có nước bị chiến tranh cướp đi nhiều sinh mạng và vật lực, có nước phải
trả giá cho tội ác chiến tranh rất nặng nề và cũng có nước bị các cường
quốc xóa sổ chính thể, cắt nhỏ lãnh thổ…
Ngày Quốc Kỳ thực sự là một nét đẹp trong
văn hóa hàm ơn tại Âu châu, thiết nghĩ, không lẽ nào người Việt Nam
chúng ta không tiếp nhận. Với mạng lưới truyền thông dồi dào và sự tân
tiến trong tư duy cá nhân hiện nay, việc tổ chức sự kiện Ngày Quốc Kỳ
không nhất thiết phải phơi bày rầm rộ, cũng không buộc phải tỏ ra kính
cẩn và trang nghiêm ; nhưng chắc chắn rằng, sự tiếp nhận ý chí tiền nhân
của hậu thế sẽ mạnh mẽ hơn và cũng mong rằng, qua sự kiện này, văn hóa
hiệu kỳ sẽ nở rộ trong cộng đồng Việt Nam.
Mẫu cờ ngũ tinh liên châu – dự án Việt Nam Dân quốc
của Việt Nam Quang phục Hội (1912 – 1925). Lá cờ này tuy không có cơ
hội trở thành quốc kỳ, nhưng đã được phất lên trong sự kiện binh biến
Thái Nguyên (1917). Trong cuốn sách Lương Ngọc Quyến, Đào Trinh Nhất viết : “Cờ
ngũ tinh có năm ngôi sao… Đến năm 1917, ngọn cờ phấp phới trên tỉnh
thành Thái Nguyên bảy ngày về tay cách mạng tức là cờ Ngũ Tinh“.
Trong cuốn hồi ký nhan đề Tự phán, viết năm 1929 tại Bến Ngự (Huế), Phan Bội Châu giải thích : ”Xưa
nước ta chỉ có cờ Hoàng Đế mà không có cờ nước cũng là một việc đáng
quái gở. Hội Việt Nam Quang phục mới chế định ra quốc kỳ bằng cờ ngũ
tinh, dạng huy thức dùng bằng cách ngũ tinh liên châu… Nhân vì nước ta
có năm địa bộ, sở dĩ dùng thức nầy để tỏ rõ cái ý năm đại bộ liên lạc
làm một. Sắc cờ dùng hoàng địa, hồng tinh làm cờ nước ; hồng địa bạch
tinh làm cờ quân. Hoàng là để biểu thị nhân chủng ta. Hồng là biểu thị
sắc nước ta : Nam phương thuộc hỏa, hỏa sắc hồng. Quân kỳ sở dĩ dùng
bạch tinh là tỏ rõ mục đích quân, cốt đánh đổ chính phủ người (da) trắng“.
Lá cờ nửa đỏ nửa vàng – dự án Việt Nam Dân quốc
của Việt Nam Quốc dân Đảng. Nó được sử dụng làm đảng kỳ từ 1929 đến
1945. Màu đỏ thể hiện cuộc tranh đấu cách mạng ; màu vàng tượng trưng
cho quốc gia – quốc dân – bản sắc truyền thống Việt Nam.
Mẫu cờ chữ Vương – dự án Việt Nam Dân quốc
của Việt Nam Phục quốc Đồng minh Hội (1939 – 1951). Ý nghĩa lá cờ này
gần giống quốc kỳ Nhật Bản : màu trắng tượng trưng cho sự thuần khiết,
chính trực ; màu đỏ thể hiện lòng nhiệt thành ; hình tượng chữ Vương (王)
vừa biểu trưng cho nền văn hiến vừa thể hiện Việt Nam là nước quân chủ.
Bìa sách Khuyến cáo quốc dân ca của Hoàng thân Cường Để (1882 – 1951) có in lá cờ chữ Vương, thậm chí đã khởi xướng mẫu quốc huy.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét