TRƯỜNG HỢP KHÔNG THẤY ẢNH MINH HỌA. XIN BẤM TRỰC TIẾP VÀO ĐÂY
Nếu bạn muốn chụp được những bức ảnh đẹp, và bạn không muốn bỏ lỡ bất kỳ cơ hội nào, hay bạn muốn “nhiều hơn thế”, một lời khuyên chân thành cho bạn là hãy ghé thăm http://vnphoto.net và các bạn sẽ có thể tìm hiểu kỹ hơn về các kỹ thuật chụp ảnh, về bố cục ảnh, …
Và, để không quá rông dài, mời các bạn bắt đầu theo dõi một loạt các Tip này.
Các hình ảnh minh họa thuộc bản quyền của tác giả Hafoto (Picture Copyright © Hafoto)
FF chỉ đảm nhiệm việc biên tập lại các Tip của anh.
________________________________________Các hình ảnh minh họa thuộc bản quyền của tác giả Hafoto (Picture Copyright © Hafoto)
FF chỉ đảm nhiệm việc biên tập lại các Tip của anh.
Một tấm ảnh từ memory card, nó chỉ là một tấm ảnh thô (raw image, xin đừng hiểu lầm với RAW format), cần phải được edit (retouch, post-processing,
sờ, tút…) để có được một tấm ảnh đạt yêu cầu về kỹ thuật.
sờ, tút…) để có được một tấm ảnh đạt yêu cầu về kỹ thuật.
1. Những yêu cầu về kỹ thuật là:
1.
Đúng sáng (right exposure): “Đúng” ở đây bao gồm cả ý nghĩa “Under” (nếu chụp theo style “Under exposure”) và “Over” (cho style “Over exposure”).
1.
Đúng sáng (right exposure): “Đúng” ở đây bao gồm cả ý nghĩa “Under” (nếu chụp theo style “Under exposure”) và “Over” (cho style “Over exposure”).
2. Đúng màu: Không bị ám màu, da đúng màu…Ở đây xin đừng lầm lẫn giữa color cast với off-color. Một số người thích ảnh bị (được) color cast vì tác dụng đặc biệt như “reveal mood” (buổi tối
thì phải hơi ám xanh…). Còn off-color có nghĩa là “sai” màu, màu bị quá xanh hay quá đỏ.
3. Đúng nét (sharpness):Ở đây nên phân biệt giữa “dreamy” và “blurry”. Dreamy nó vẫn có focus của nó nhưng nhẹ (soft), còn blurry là sai nét hay out focus.thì phải hơi ám xanh…). Còn off-color có nghĩa là “sai” màu, màu bị quá xanh hay quá đỏ.
Đáp ứng được 3 yêu cầu trên là hình có thể “giao được cho khách hàng rồi”.Những steps trên có thể thu lại thành action nên một tấm hình về cơ bản chỉ mất khoảng 30 giây là xong. Tuy nhiên tới đây hình chỉ mới đạt được phần căn bản (basic) về mặt kỹ thuật.
4. Yêu cầu thứ 4 có tính cách nghệ thuật (nên phải trả tiền thêm mới làm) vì nó đòi hỏi “close-retouching” như: cân bằng highlight và shadow, làm cho da mịn, blur background, và đại khái những gì liên quan đến “Thẩm mỹ viện”…Nếu cần thì làm trắng đen, duotone.
2. Những việc cần làm đầu tiên để đạt kết quả tốt:
2.1. Nơi làm việc:
1.
Calibrate cái monitor trước (hiệu chỉnh màn hình máy tính – Bạn tham khảo thêm tại trang chủ, trong cuốn “Photoshop CS hoặc 7.0) . Nếu có thể được, thì xài CRT monitor flat screen
2. Đặt monitor nơi nào mà ánh sáng ổn định, không bị ảnh hưởng của những nguồn sáng chung quanh dù là thời điểm nào đi nữa trong ngày.
3. Play some jazz music (cái này thì optional)
2.2. Photoshop Workspace:
1.
Những panel sau đây được dùng nhiều nhất cho nhiếp ảnh: Tools Bar, Layer, History, Action. Nếu bạn không thấy những panel này thì bấm window menu, make sure nhungx panel này được check. Chồng những panel này thành một nhóm để không bị choán chỗ. (Chức năng của những panels này sẽ được giải nghĩa sau.
Hình 1
2.
Lựa Eyedropper trên Tool Bar: đây là tool dùng để chọn màu, PS mặc định là “point sample”, có nghĩa là nếu bạn dùng tool này click lên một vùng nào đó của ảnh thì nó sẽ cho ta biết màu được lựa. Vì “point sample” chỉ lựa 1 pixel đại diện cho vùng đó nên thường là không chính xác, nên ta cần phải đổi qua “3 by 3 Average” (xem ảnh dưới). Với sự thay đổi này, Eyedropper sẽ lựa 9 pixels (3 nhân 3 là 9) đại diện cho vùng được lựa.
Hình 2
3.
Hầu hết các lệnh (command) trong PS đều có thể tìm thấy trong menu, tuy nhiên để đạt hiệu quả cao nhất về tốc độ, nhũng keyboard shortcut sau đây cần phải nhớ (khi bạn dùng bàn phím để làm việc nhất là trước mặt khách hàng thì dễ “hù” (impress) hơn, bạn cho khách hàng cảm tưởng là “Wow!!! This guy is good)
Control-J: Copy layer hay phần được lựa chọn vào 1 layer mới.
Control-Z: “Cái này xấu quá! thôi làm lại nhé”
Control-F: Áp dụng lệnh cuối cùng 1 lần nũa.
Control-H: Dấu đi vùng lựa chọn.
Control-D: Bỏ (cancel) vùng chọn.
Thôi dài dòng vậy đủ rồi, bắt tay vào tip đầu tiên nhen.
Tip 1: How to fix underexposed photos.
Bước đầu tiên là ảnh phải có đủ ánh sáng để retouch. Theo kinh nghiệm của tác giả (hafoto) làm việc tại Pictage, trong 10 tấm nếu có problem về ánh sáng thì 8 tấm là underexposure (1 tấm bị “cháy”, còn tấm kia thì ánh sáng lộn xộn)
Có 2 dạng ảnh bị tối: Toàn bộ bị tối và một phần nào đó của ảnh bị tối.
1. Trường hợp toàn bộ bị tối.
Ảnh gốc
http://www.bantayden.com/photoeffect/hafoto/Thuchanh1.jpg
Step 1: Control-J để copy ảnh lên 1 layer mới.
Nhìn lên layer panel, ta có background (ảnh gốc) và layer 1 (phần được copy).
Step 2: Đổi mode từ “normal” sang “screen”
Tới đây, nếu bạn cảm thấy hình chưa đủ sáng, thì bạn có thể Control-J thêm
một lần nữa để copy “layer 1″ thành “layer 1 copy”, layer mới tạo thành củng có mode “screen” nên ảnh được nâng sáng thêm một lần nữa. Tuy nhiên tới đây, thì ảnh lại quá sáng nên bạn có thể giảm Opacity xuống còn 50%.
Ảnh sau khi được nâng sáng lên 150% (tạm gọi là 1 layer rưỡi).
———————-
2. Trường hợp ảnh bị tối một phần:
Ảnh
dưới nếu ta áp dụng phương pháp trên thì cô dâu, chú rể sáng lên, nhưng bầu trời lại quá sáng, nên ta phải tìm cấch nâng sáng vùng mà ta cần thôi.
Hìnih thực hành
http://www.bantayden.com/photoeffect/hafoto/Thuchanh2.jpg
Step 1: Vào “Select” menu (phía trên cùng), chọn “Color range…”, vào “Select” box, chọn shadow (xem minh họa dưới). Lệnh (command) này chỉ lựa phần shadow của ảnh.
Step 2: Vào “Select” menu một lần nũa, chọn “Feather…”
Mục đích của command “feather” (command này chỉ active chỉ sau khi một vùng
nào đó được chọn) là tạo thành một vùng chuyển (transiotional area) giữa vùng được chọn và vùng còn lại. Tùy theo effect mà ta dùng trên vùng chọn nhiều hay ít mà ta cho nó số pixels thích hợp trong “Feather Radius” box (Cho nhiều pixels nếu efect gây ảnh hưởng “lớn” trên ảnh). Thường thì ảnh High Resolution cao hơn ảnh Low Resolution khoãng 100 pixels.
Trong ảnh này ta ap dụng 58 pixels. Kế tiếp bấm OK.
Step 3: Control-J để copy phần được chọn lên layer mới. Nếu bạn “tắt con mắt” ở layer background thì bạn sẽ thấy vùng chọn (đã được “feather”) trên layer 1.
Step 4: Đổi mode từ “nomal” sang “screen”.
Ảnh sau khi vùng tối đươc nâng lên (vùng sáng không bị ảnh hưởng)
Sau khi làm cho ảnh đủ sáng, step cuối cùng (của cả 2 phương pháp) là flatten image. Có nghĩa là ảnh được tạo bởi những “lớp” (layer), ta cần phải làm “bẹp” nó lại thành 1 lớp.
Vào cái tam giác nhỏ bên phải phía trên của layer panel, bạn sẽ thấy command “Flatten Image”.
———————–
Có 2 yếu tố ảnh hưởng đến Feather Radius:
1. Hình high resolution hay low resolution. Thường thì hình high resolution thì set khoãng 100 pixels hơn hình low resolution. Ví dụ nếu hình low set 58 px thì hình high set 158 px.
2. Nếu cái effect (hay filter) mà ta áp dụng lên vùng lựa làm cho vùng này thay đổi quá khác biệt so với vùng còn lại của ảnh, thì cần phải set nhiều pixel để vùng đươc effect chuyển qua vùng còn lại nhìn tự nhiên hơn. Nếu set thấp quá thì sự thay đổi nhìn sẽ “đột ngột” hơn.
Trong PS, không có những con số thần diệu (magic numbers), vì nó tùy thược vào camera, ống kính, sở thích của người chụp ảnh.
2. Nếu cái effect (hay filter) mà ta áp dụng lên vùng lựa làm cho vùng này thay đổi quá khác biệt so với vùng còn lại của ảnh, thì cần phải set nhiều pixel để vùng đươc effect chuyển qua vùng còn lại nhìn tự nhiên hơn. Nếu set thấp quá thì sự thay đổi nhìn sẽ “đột ngột” hơn.
Trong PS, không có những con số thần diệu (magic numbers), vì nó tùy thược vào camera, ống kính, sở thích của người chụp ảnh.
Kinh nghiệm của hafoto
Khoãng 40-60 pixel: Cho nhũng effect “trung bình” (Hình high thì thêm 100 px).
Nếu bác làm quen, thì sự nhận định về số pixels sẽ càng ngày càng chính xác hơn…Chúc bác happy….
Khoãng 40-60 pixel: Cho nhũng effect “trung bình” (Hình high thì thêm 100 px).
Nếu bác làm quen, thì sự nhận định về số pixels sẽ càng ngày càng chính xác hơn…Chúc bác happy….
Các bước hoàn thiện cho 1 ảnh KTS 2
Trường hợp không thấy ảnh minh họa, xin bấm vào đây
Sau khi chỉnh exposure (xem tip 1), bước kế tiếp là chỉnh (enhance) màu
sắc. Thương thì raw image màu sắc không được vivid và radiant (tạm dịch
là “bắt mắt”), và sự tương phản giũa highlight và shadow không được cao
cho lắm. Ví dụ như ảnh sau:
http://www.bantayden.com/photoeffect/hafoto/Thuchanh3.jpgsắc. Thương thì raw image màu sắc không được vivid và radiant (tạm dịch
là “bắt mắt”), và sự tương phản giũa highlight và shadow không được cao
cho lắm. Ví dụ như ảnh sau:
Có 2 cách để chỉnh color và contrast: Thêm “density” và dùng “diffused glows”
Cách 1: Adding density with Blend Modes.
Step 1: Control-J để copy ảnh vào layer mới.
Step 2: Đổi mode nomal thành soft light.
Step 3: Trên layer panel, bấm nút “Add a layer style”, và chọn “Blending Options”
Step
4: Tại “Layer Style” dialogue box, kéo cái slider của “this layer” về
bên phải khoảng 200. (Khi ta kéo slider vẻ phía bên phải như vậy là để
bảo vệ phần shadow)
Step
5: Cái slider đó, nếu nhìn kỹ nó có 2 tam giác. Cái tam giác bên trái
nó ảnh hưởng tới phần highlight. Để tách nó ra: Giữ Alt phím, đồng thời
kéo cái tam giác trái về bên trái khoãng 50 để làm lộ (reveal) phần
highlight.
Sau
khi bấm Ok, thì ta sẽ thấy hình được tăng density vào phần highlight
-> tương phản hơn với phần shadow. (Muốn biết effect này ảnh hưởng
gì tới highlight, chỉ cần tắt con mắt của background layer)
Đây là phần density được thêm vào:
Còn đây là ảnh sau khi đươc tăng density:
Ủa quên, nhớ flatten image nhe.
——————-
Cách 2: Diffused Glows Technique:
Kỹ
thuật này dành cho các bác thích hình soft và romantic (mịn và lãng
mạn), vì nó “diffused” và làm “rực” (glow) phần highlight.
Cũng dùng hình trên làm ví dụ:
Step 1: Control-J để copy ảnh lên layer mới (layer 1)
Step 2: Vào Filter Menu, chọn Blur -> Gausian Blue…
Tùy theo mức độ soft và glow, áp dụng khoãng tư 5 -> 50 pixels (hình HighRes và LowRes như nhau). Ở đây áp dụng 30 px.
Nhìn vào ảnh ta thấy phần highlight nhìn mịn và rực (soft, glow), nhưng phần shadow bị mất chi tiết.
Các bước hoàn thiện cho 1 ảnh KTS 3
Có 3 slider điều khiển mức độ sharpen:
Nếu bạn thấy cỏ xanh quá thì có thể giảm Opacity xuống còn 30% hay 40%.
2. Paint with Softlight Brush:
Kỹ
thuật này dành cho các bác thích hình soft và romantic (mịn và lãng
mạn), vì nó “diffused” và làm “rực” (glow) phần highlight.
Cũng dùng hình trên làm ví dụ:
Step 1: Control-J để copy ảnh lên layer mới (layer 1)
Step 2: Vào Filter Menu, chọn Blur -> Gausian Blue…
Tùy theo mức độ soft và glow, áp dụng khoãng tư 5 -> 50 pixels (hình HighRes và LowRes như nhau). Ở đây áp dụng 30 px.
Sau khi bấm OK, bạn sẽ thấy hình nó blur luôn, đừng hoảng hốt, chỉ cần đổi mode từ normal thành softlight.
Hình sau khi đổi thành mode softlightNhìn vào ảnh ta thấy phần highlight nhìn mịn và rực (soft, glow), nhưng phần shadow bị mất chi tiết.
Step 3: Giống như cách 1, mở “Layer Style” dialogue box, nhưng lần này bảo vệ phần shadow ở 100 và để lộ phần highlight ở 25.
Nếu bạn muốn biết effect này ảnh hưởng gì đến phần highlight, chỉ cần tắt con mắt của background layer.
Step 4: Flatten ảnh và ta da, here you go
Các bước hoàn thiện cho 1 ảnh KTS 3
Tip này nói về kỹ thuật
dùng “Unsharp Mask” Filter cho chân dung. Tip này áp dụng cho ảnh High
Res nên sẽ không có ảnh minh họa vì ảnh trên diễn đàn chỉ dành cho Web
(tức là ảnh LowRes).
dùng “Unsharp Mask” Filter cho chân dung. Tip này áp dụng cho ảnh High
Res nên sẽ không có ảnh minh họa vì ảnh trên diễn đàn chỉ dành cho Web
(tức là ảnh LowRes).
Có ít nhất là 5 cách “sharpen” trong PS,
nhưng Unsharp Mask được xem như dễ dùng và hữu hiệu nhất (biết nhiều
phương pháp củng có cái lợi là để dành đó để “cải lộn” với người khác
cho vui).
nhưng Unsharp Mask được xem như dễ dùng và hữu hiệu nhất (biết nhiều
phương pháp củng có cái lợi là để dành đó để “cải lộn” với người khác
cho vui).
Có 2 trường hợp cần phải dùng Unsharp Mask:
1.
Cho dù máy của bạn “xịn” tới đâu đi nữa, thì ảnh sau khi download từ
memory card, củng cần phải sharpen (trust me, hình càng sharp thì chủ
đề càng nhìn bảnh bao hơn, bởi vậy mới có tựa đề là “Man! You look
sharp!”)
Cho dù máy của bạn “xịn” tới đâu đi nữa, thì ảnh sau khi download từ
memory card, củng cần phải sharpen (trust me, hình càng sharp thì chủ
đề càng nhìn bảnh bao hơn, bởi vậy mới có tựa đề là “Man! You look
sharp!”)
2. Ảnh sau khi resize: Cho dù là phóng lớn hay thu nhỏ, sau khi resize cần phải sharpen lại (cái này ngộ quá hen)
Unsharp Mask có thể tìm thấy ở Filter – Sharpen – Unsharp Mask…Có 3 slider điều khiển mức độ sharpen:
1. Radius:
Cạnh (edge) được xem là cơ bản để sharpen, nên ngay tại cạnh bạn có thể
quyết định bao nhiêu pixels để áp dụng lệnh này. Vì vậy, với nhũng hình
có đương nét “mỏng” và “smooth” nên set ít pixel, và ngược lại với
đương nét “thick” thì set nhiều pixel.
Thường thì setting từ 1 đến 4 pixel là “an toàn”
Cạnh (edge) được xem là cơ bản để sharpen, nên ngay tại cạnh bạn có thể
quyết định bao nhiêu pixels để áp dụng lệnh này. Vì vậy, với nhũng hình
có đương nét “mỏng” và “smooth” nên set ít pixel, và ngược lại với
đương nét “thick” thì set nhiều pixel.
Thường thì setting từ 1 đến 4 pixel là “an toàn”
2. Amount: Quyết định bao nhiêu phần trăm “cạnh” được sharpen.
Thương thì setting tư 50 đến 150% là “an toàn”
Thương thì setting tư 50 đến 150% là “an toàn”
3. Threshold:
Cái này quyết định độ “intense” của “surface”. Nói một cách khác phần
“bằng phẳng” (không phải edge) nhìn mềm mại (soft) hay đanh (strong
hard).
Thường thì setting từ 3 đến 20 là thông dụng
Cái này quyết định độ “intense” của “surface”. Nói một cách khác phần
“bằng phẳng” (không phải edge) nhìn mềm mại (soft) hay đanh (strong
hard).
Thường thì setting từ 3 đến 20 là thông dụng
Mối tương quan giữa radius, amount, và threshold.
Nếu radius đươc set thấp (1 px), thì bạn có thẻ set amount cao (150%) và ngược lại:
Nếu radius đươc set cao (4 px) thì bạn có thể set amount thấp (50%)
Threshold: Tùy theo bạn thich ảnh cao hay thấp intension: set thấp (3) thì nhìn sắc, set cao (20) thì nhìn “mềm”.
Nếu radius đươc set cao (4 px) thì bạn có thể set amount thấp (50%)
Threshold: Tùy theo bạn thich ảnh cao hay thấp intension: set thấp (3) thì nhìn sắc, set cao (20) thì nhìn “mềm”.
Căn cứ vào nhu cầu của ảnh mà set cho thích hợp (ví dụ như ảnh có edge mạnh hay mềm mại, ảnh nhìn soft hay high contrast).
Vì
những thông số trên tùy thuợc vào máy ảnh, ống kính, và kỹ thuật lấy
nét nên bạn cần phải bỏ thời giờ thử nghiệm coi thông số nào tốt nhất
cho máy của mình (There are no magic numbers)
Killing Tips cho Unsharp Mask:những thông số trên tùy thuợc vào máy ảnh, ống kính, và kỹ thuật lấy
nét nên bạn cần phải bỏ thời giờ thử nghiệm coi thông số nào tốt nhất
cho máy của mình (There are no magic numbers)
Tip
1: Nếu sau khi áp dụng Unsharp Mask, mà nhìn chưa đủ “sharp” thì click
Control-F (áp dụng filter thêm một lần nữa). Áp dụng filter 2 lần với
low-setting hay hơn là 1 lần với high-setting. (Cái này kỳ hén)
1: Nếu sau khi áp dụng Unsharp Mask, mà nhìn chưa đủ “sharp” thì click
Control-F (áp dụng filter thêm một lần nữa). Áp dụng filter 2 lần với
low-setting hay hơn là 1 lần với high-setting. (Cái này kỳ hén)
Tip 2: Nếu hình bị sharp hơi quá trớn (ở cái edge nó bị halo effect) thì vào Edit -> Fade, đổi mode thành Luminosity.
Tùy chọn của tác giả (hafoto)
*Hình high-res: Threshold:0, Radius: 1, Amount: 300 (Sorry, I broke the rule).
*Hình low-res: Threshold:0, Radius: 0.3, Amount: 150.
Tip 4: Go Beyond The Real World*Hình high-res: Threshold:0, Radius: 1, Amount: 300 (Sorry, I broke the rule).
*Hình low-res: Threshold:0, Radius: 0.3, Amount: 150.
Một trong những kỹ thuật
tạo ấn tượng cho người xem là làm cho màu sắc “rực rỡ” hơn mắt thường
cảm nhận (surreal). Khi mà màu sắc trở nên “vibrant” và “vivid” thì dễ
“bắt mắt” người xem hơn. Nếu bạn nào chụp “commercial”(chụp cơm gạo)
thì kỹ thuật này là dành cho bạn
Có 2 kỹ thuật thương dùng là “Masking with blending modes” và “Paint with softlight brush”.tạo ấn tượng cho người xem là làm cho màu sắc “rực rỡ” hơn mắt thường
cảm nhận (surreal). Khi mà màu sắc trở nên “vibrant” và “vivid” thì dễ
“bắt mắt” người xem hơn. Nếu bạn nào chụp “commercial”(chụp cơm gạo)
thì kỹ thuật này là dành cho bạn
1. Masking with blending modes:
Ảnh
dưới ta thấy chủ đề nhìn “nhợt nhạt”, quần Jean chưa có “xanh blue”
lắm, cỏ chưa có xanh “zdì”(hay “rì”) lắm, mây thì chưa kịch tính
(dramatic) lắm
Tải về hình thực hành
http://www.bantayden.com/photoeffect/hafoto/Thuchanh4.jpg
Ảnh
dưới ta thấy chủ đề nhìn “nhợt nhạt”, quần Jean chưa có “xanh blue”
lắm, cỏ chưa có xanh “zdì”(hay “rì”) lắm, mây thì chưa kịch tính
(dramatic) lắm
Tải về hình thực hành
http://www.bantayden.com/photoeffect/hafoto/Thuchanh4.jpg
Step 1: Control-J để copy ảnh lên layer mới
Step 2: Đổi mode của layer trên từ “Normal” thành “Color Burn”,
Bây
giờ thì bầu trời nhìn “khá” hơn, nhưng mà màu sắc thì nhìn “bết bền
bệt”. Không sao, vì mình chỉ dùng layer trên (layer 1) như là một cái
“mask” (mặt nạ) để che phần mây phía dưới.
giờ thì bầu trời nhìn “khá” hơn, nhưng mà màu sắc thì nhìn “bết bền
bệt”. Không sao, vì mình chỉ dùng layer trên (layer 1) như là một cái
“mask” (mặt nạ) để che phần mây phía dưới.
Step 3: Để biến layer này thành cái mask, giữ phím Alt và bấm vào nút “Add layer mask” trên layer panel (được khoanh đỏ).
Bây
giờ, hình sẽ trở lại bình thường, và trên layer 1 bạn sẽ thấy một hình
chữ nhật màu đen, điều này có nghĩa là layer này đóng vai trò như là
một cái mask.Tại thời điểm này, thì layer 1 chưa có mask layer
backgrounk (nói một cách khác là layer 1 chưa che đậy layer background).
giờ, hình sẽ trở lại bình thường, và trên layer 1 bạn sẽ thấy một hình
chữ nhật màu đen, điều này có nghĩa là layer này đóng vai trò như là
một cái mask.Tại thời điểm này, thì layer 1 chưa có mask layer
backgrounk (nói một cách khác là layer 1 chưa che đậy layer background).
Step
4: Để bắt đầu dùng phần mây của layer 1 che đậy (masking) phần mây của
layer background, bấm phím “D” để set foreground màu trắng, rồi chọn
một cái soft edge brush trên Tool Panel, với mode “normal, opacity để
100% .
4: Để bắt đầu dùng phần mây của layer 1 che đậy (masking) phần mây của
layer background, bấm phím “D” để set foreground màu trắng, rồi chọn
một cái soft edge brush trên Tool Panel, với mode “normal, opacity để
100% .
Step
5: Để che (mask) layer background, bắt đầu di cái brushd để lấy phần
mây của của layer 1 đắp lên (hay “đè” lên) phần mây của layer
background)
5: Để che (mask) layer background, bắt đầu di cái brushd để lấy phần
mây của của layer 1 đắp lên (hay “đè” lên) phần mây của layer
background)
Còn đây là phần mây được dùng để “đè” lên phần mây của ảnh “gốc” (tắt con mắt của layer background)
Tương tự như vậy,
Để làm cho cỏ xanh hơn thì chọn Mode: Color Dodge, Opacity: 50%.
Để làm cho quần Jean xanh hơn và tóc “đỏ” hơn thì chọn Mode: Overlay, Opacity: 50%.
Những layers phía dưới được đổi tên thành May, Co, QuanToc để tiện theo dõi.
Để làm cho cỏ xanh hơn thì chọn Mode: Color Dodge, Opacity: 50%.
Để làm cho quần Jean xanh hơn và tóc “đỏ” hơn thì chọn Mode: Overlay, Opacity: 50%.
Những layers phía dưới được đổi tên thành May, Co, QuanToc để tiện theo dõi.
Nếu bạn thấy cỏ xanh quá thì có thể giảm Opacity xuống còn 30% hay 40%.
Chú thích::
Sư thật thì những layer trên (May, Co, QuanToc) không “che” layer gốc
mà chính xác hơn là chúng “tương tác” với layer background bằng những
mode khác nhau (Color Burn, Color Dodge, Overlay) ở những mức độ khác
nhau (tùy theo Opacity).
Sư thật thì những layer trên (May, Co, QuanToc) không “che” layer gốc
mà chính xác hơn là chúng “tương tác” với layer background bằng những
mode khác nhau (Color Burn, Color Dodge, Overlay) ở những mức độ khác
nhau (tùy theo Opacity).
—————–
Blending Mode
cho phép những pixels của layer trên “tương tác” với những pixels của
layer dưới tùy theo Mode mà mình chọn (ngoại trừ Mode Normal).
cho phép những pixels của layer trên “tương tác” với những pixels của
layer dưới tùy theo Mode mà mình chọn (ngoại trừ Mode Normal).
Trong
kỹ thuật phòng tối kinh điển thì người ta dùng Dodge để nâng vùng
highlight lên và Burn để làm phần shadow tối thêm, kết quả là ảnh tăng
thêm độ tương phản (contrast).
kỹ thuật phòng tối kinh điển thì người ta dùng Dodge để nâng vùng
highlight lên và Burn để làm phần shadow tối thêm, kết quả là ảnh tăng
thêm độ tương phản (contrast).
Vì vậy trong ví dụ trên, khi dùng
Color Burn thì toàn bộ ảnh bị “burn” tối đi, nhưng vì ta chỉ cần phần
mây nên “masking technique” đươc dùng để loại bỏ những phần còn lại.
Ngược lại với Color Burn là Color Dodge.
Riêng Mode Overlay, thì ảnh hưởng đồng thời tới highlight và shadow nên toàn bộ ảnh được tăng contrast.
Ngoài ra ta còn có thể dùng Opacity để điều khiển mức độ tác dụng của “Blending Modes”.
Color Burn thì toàn bộ ảnh bị “burn” tối đi, nhưng vì ta chỉ cần phần
mây nên “masking technique” đươc dùng để loại bỏ những phần còn lại.
Ngược lại với Color Burn là Color Dodge.
Riêng Mode Overlay, thì ảnh hưởng đồng thời tới highlight và shadow nên toàn bộ ảnh được tăng contrast.
Ngoài ra ta còn có thể dùng Opacity để điều khiển mức độ tác dụng của “Blending Modes”.
Ta
có thẻ liên kết nhiều layers với những mode khác nhau để tạo hiệu quả
đặc biệt (phần này sẽ nói thêm trong những tips kế tiếp)
có thẻ liên kết nhiều layers với những mode khác nhau để tạo hiệu quả
đặc biệt (phần này sẽ nói thêm trong những tips kế tiếp)
Vì mỗi
mode trong menu có những tác dụng khác nhau, và vì khuôn khổ bài viết
có hạn, tôi chỉ đề cập đến những mode liên quan đến bài viết, tuy nhiên
các bạn có thể thử nghiệm (experiment) để tự khám phá thêm. Chúc bác
vui vẻ…
———————–mode trong menu có những tác dụng khác nhau, và vì khuôn khổ bài viết
có hạn, tôi chỉ đề cập đến những mode liên quan đến bài viết, tuy nhiên
các bạn có thể thử nghiệm (experiment) để tự khám phá thêm. Chúc bác
vui vẻ…
2. Paint with Softlight Brush:
Kỹ
thuật sau đây dễ gấp 10 lần kỹ thuật trên về mặt hiệu quả nhưng em phải
trình bày kỹ thuật đó (masking with blending modes) trước là vì:
thuật sau đây dễ gấp 10 lần kỹ thuật trên về mặt hiệu quả nhưng em phải
trình bày kỹ thuật đó (masking with blending modes) trước là vì:
1. Nếu kỹ thuật này được viết trước thì chả ai thèm đọc kỹ thuật trước
2. Kỹ thuất trước được coi như tiêu chuẩn (standard), kỹ thuật này được coi là “tà đạo” (underground).
3.
Kỹ thuất trước được dùng để minh họa cho khái niệm về layers, masking,
blending modes…Kỹ thuật này dùng để “kiếm tiền” nhanh hơn.
2. Kỹ thuất trước được coi như tiêu chuẩn (standard), kỹ thuật này được coi là “tà đạo” (underground).
3.
Kỹ thuất trước được dùng để minh họa cho khái niệm về layers, masking,
blending modes…Kỹ thuật này dùng để “kiếm tiền” nhanh hơn.
Ảnh sau đây, ta thấy background rất là màu sắc (đỏ, xanh lá cây, xanh da trời, vàng), nhưng nhìn “chết” (dull).
http://www.bantayden.com/photoeffect/hafoto/Thuchanh5.jpg
Step
1: Control-J để copy ảnh lên layer mới. Ta sẽ tô màu trên layer copy
này, vì nếu ta có quá tay tô nhiều quá hay làm sai ta chỉ có việc
delete layer này mà không ảnh hưởng đến layer dưới.
Step 2: Bấm lên “Set Foreground Layer”, di cái vòng tròn để lựa màu mà bạn muốn tô.1: Control-J để copy ảnh lên layer mới. Ta sẽ tô màu trên layer copy
này, vì nếu ta có quá tay tô nhiều quá hay làm sai ta chỉ có việc
delete layer này mà không ảnh hưởng đến layer dưới.
Step 3: Lựa “soft edge brush” trên Tool Panel, set mode Soft Light, Opacity 30% trên Option Bar.
Step
4: Rồi bây giờ là phần “đã” nhất. Với cái tường màu đỏ thì bạn chọn
Foreground Color đậm đỏ sáng hơn 1 tí (bằng cách di cái vòng tròn nhỏ
vào vùng đỏ tươi), rồi tô “hồn nhiên” lên cái tường đỏ. Tương tụ như
vậy với màu vàng, green, blue….
Lưu ý, tô vừa vừa thôi nhe coi chưng màu lòe loẹt quá giống như GO BEYOND THE REAL WORLD (tựa đề của tip này)
4: Rồi bây giờ là phần “đã” nhất. Với cái tường màu đỏ thì bạn chọn
Foreground Color đậm đỏ sáng hơn 1 tí (bằng cách di cái vòng tròn nhỏ
vào vùng đỏ tươi), rồi tô “hồn nhiên” lên cái tường đỏ. Tương tụ như
vậy với màu vàng, green, blue….
Lưu ý, tô vừa vừa thôi nhe coi chưng màu lòe loẹt quá giống như GO BEYOND THE REAL WORLD (tựa đề của tip này)
Các bước hoàn thiện cho 1 ảnh KTS 4
Step 2: Bấm phím “D” để set foreground màu đen. Giữ Alt key, đồng thời bấm phím “backspace” để làm cho “layer trống” màu đen.
Step
3: Kéo Opacity của “layer trống” từ 100 xuỗng 0. Chọn Elliptical
Marquee Tool trên Tool panel. Vẽ vòng tròn chung quanh mặt chủ đề.
Step
4: Vào Select -> Feather: set feather: 15. Bấm phím “Backspace” để
xóa đi vùng chọn (đục lỗ) layer “đen”. Control-D để bỏ vùng chọn
(deselect).
Step 5: Nâng Opacity của layer “đen” lên khoãng 30 để làm cho những vùng chung quanh “tối” đi. That’s it.
——————
2. Color Range Technique:
Ảnh
dưới ta thấy chủ đề đã nổi bật, tuy nhiên để làm nỏi bật những bóng đèn
màu trên trần nhà, ta cần phải làm tối đi những phần sáng không liên
quan đến ảnh.
Tải về hình thực hành
http://www.bantayden.com/photoeffect/hafoto/Thuchanh7.jpg
Step 1: Vào Select -> Color Range.
Mở menu Select box, chọn “Shadow”, sau khi bấm OK, bạn sẽ thấy nhưng đương “kiến bò” (marching ants) chọn lấy vùng shadows.
Step 2: Chọn feather khoãng 12 px (luôn luôn feather sau khi chọn)
Giữ
phím Control, đồng thời bấm phím “H” để giấu đi vùng chọn (ta chỉ giấu
đi để không bị vướng mắt, và để dễ làm việc, chứ vùng chọn vẫn còn đó)
Step 3: Vào Image -> Adjustment -> Brightness/Contrast: Giãm Brightness xuống còn -70.
Giữ phím Control, bẫm phím “H” cho vùng chọn hiện trở lại.
Giữ phím Control, bấm phím “D” để bỏ vùng chọn.
Về cơ bản là hoàn tất, tuy nhiên, chủ đề chính hơi bị tối đi và ta vẫn còn thấy cái bàn ăn phía sau cô gái.
Để làm sáng lại chủ đề, chọn History Brush (Opacity: 70), vẽ lại vùng bị ám tối (bên trong đương xanh lá cây).
Tip 5: The Power of Darkness.
Thường
thì chủ đề của một tấm ảnh là thuộc về phần highlight, nhưng chính phần
shadow đẹp làm nổi bật phần highlight. Phần shadow giúp cho việc loại
bỏ những chi tiết không cần thiết, hướng mắt người nhìn vào chủ đề, và
làm cho ảnh thêm phần kịch tính. Cho nên điều chỉnh tỉ lệ giũa
highlight và shadow quyết định đến cái “hồn” (mood) của ảnh.
thì chủ đề của một tấm ảnh là thuộc về phần highlight, nhưng chính phần
shadow đẹp làm nổi bật phần highlight. Phần shadow giúp cho việc loại
bỏ những chi tiết không cần thiết, hướng mắt người nhìn vào chủ đề, và
làm cho ảnh thêm phần kịch tính. Cho nên điều chỉnh tỉ lệ giũa
highlight và shadow quyết định đến cái “hồn” (mood) của ảnh.
Có 3 cách thông dụng để điều chỉnh phần shadow: Vignette technique, Color range, và Magic wand.
1. Vignette Technique:
Phương
pháp này thường được dùng khi chung quanh chủ đề có nhiều vật thể
“distracting” và sáng làm cho nhười nhìn bị chia trí. Để khắc phục, 4
góc của sẽ được làm tối đi để hướng mắt người nhìn vào trung tâm. (xem
ảnh dưới)
Phương
pháp này thường được dùng khi chung quanh chủ đề có nhiều vật thể
“distracting” và sáng làm cho nhười nhìn bị chia trí. Để khắc phục, 4
góc của sẽ được làm tối đi để hướng mắt người nhìn vào trung tâm. (xem
ảnh dưới)
Tải về hình thực hành
http://www.bantayden.com/photoeffect/hafoto/Thuchanh6.jpg
http://www.bantayden.com/photoeffect/hafoto/Thuchanh6.jpg
Step 1: Bấm vào nút “Create a new layer” trên layer panel để tạo nên 1 layer trống (blank layer).
Step 2: Bấm phím “D” để set foreground màu đen. Giữ Alt key, đồng thời bấm phím “backspace” để làm cho “layer trống” màu đen.
Step
3: Kéo Opacity của “layer trống” từ 100 xuỗng 0. Chọn Elliptical
Marquee Tool trên Tool panel. Vẽ vòng tròn chung quanh mặt chủ đề.
Step
4: Vào Select -> Feather: set feather: 15. Bấm phím “Backspace” để
xóa đi vùng chọn (đục lỗ) layer “đen”. Control-D để bỏ vùng chọn
(deselect).
Step 5: Nâng Opacity của layer “đen” lên khoãng 30 để làm cho những vùng chung quanh “tối” đi. That’s it.
——————
2. Color Range Technique:
Ảnh
dưới ta thấy chủ đề đã nổi bật, tuy nhiên để làm nỏi bật những bóng đèn
màu trên trần nhà, ta cần phải làm tối đi những phần sáng không liên
quan đến ảnh.
Tải về hình thực hành
http://www.bantayden.com/photoeffect/hafoto/Thuchanh7.jpg
Step 1: Vào Select -> Color Range.
Mở menu Select box, chọn “Shadow”, sau khi bấm OK, bạn sẽ thấy nhưng đương “kiến bò” (marching ants) chọn lấy vùng shadows.
Step 2: Chọn feather khoãng 12 px (luôn luôn feather sau khi chọn)
Giữ
phím Control, đồng thời bấm phím “H” để giấu đi vùng chọn (ta chỉ giấu
đi để không bị vướng mắt, và để dễ làm việc, chứ vùng chọn vẫn còn đó)
Step 3: Vào Image -> Adjustment -> Brightness/Contrast: Giãm Brightness xuống còn -70.
Giữ phím Control, bẫm phím “H” cho vùng chọn hiện trở lại.
Giữ phím Control, bấm phím “D” để bỏ vùng chọn.
Về cơ bản là hoàn tất, tuy nhiên, chủ đề chính hơi bị tối đi và ta vẫn còn thấy cái bàn ăn phía sau cô gái.
Để làm sáng lại chủ đề, chọn History Brush (Opacity: 70), vẽ lại vùng bị ám tối (bên trong đương xanh lá cây).
Để xóa đi cái bàn. Bấm phím “D” để set foreground màu đen (xem ảnh dưới), chon Soft Edge Brush, rồi bôi đen đi
Các bước hoàn thiện cho 1 ảnh KTS 5
Step 3: Image -> Adjustments -> Color Balance
Set Yellow = -45, Red = 50
That’s it, ảnh sau khi chuyển thành Sepia
—————————–
Shift-Control-Alt-N (cùng lúc) đẻ tạo blank layer (layer trống)
Shift-Control-Alt-E (cùng lúc) để “nhập” layer gốc và layer mask lại
Step 3: Vào Filter-Distort-Diffuse Glow, ta sẽ thấy 3 cái slider điều khiển mức độ diffuse glow:
Graininess slider: điều khiển mức độ hạt (set 6)
Glow Amount: điều khiển mức độ rực (set 1)
Clear Amount: Điều khiển mức đọ chi tiết (set 18)
Những setting trên có tính cách sở thích cá nhân, bạn có thể set cách khác tùy ý.
Control-V: để copy bản sao từ buffer lên trên bản gốc
Đổi mode của layer “cross-processing” thành “Overlay”, và giảm Opacity khoãng 60-80 (tùy theo sở thích).
Ảnh được thêm một tí “glow”
Được sự cho phép của tác giả – anh Ha Nguyen, Vietphotoshop xin trân trọng giới thiệu với các bạn một loạt các hướng dẫn về các kỹ thuật sử dụng PS cho việc hoàn thiện các bức ảnh KTS.
Tip 6: Black & White, Duotone, Infrared, and Cross-Processing.
Tip 6: Black & White, Duotone, Infrared, and Cross-Processing.
1. Black & White:
Khi
chuyển từ màu sang B&W, điều quan trọng nhất là control từng
channel red, green, blue một để đạt được kết quả tốt nhất. Vì mỗi ảnh
có mức độ Red, Green, và Blue khác nhau nên không có (hay chưa có)
filter nào tự động chuyển B&W một cách “magic” được. Hơn nữa,
chuyển B&W bằng cách “eyeing” (canh) củng là một thú vui).
Khi
chuyển từ màu sang B&W, điều quan trọng nhất là control từng
channel red, green, blue một để đạt được kết quả tốt nhất. Vì mỗi ảnh
có mức độ Red, Green, và Blue khác nhau nên không có (hay chưa có)
filter nào tự động chuyển B&W một cách “magic” được. Hơn nữa,
chuyển B&W bằng cách “eyeing” (canh) củng là một thú vui).
Để
control từng channel Red, Green, Blue một một cách hiệu quả nên nhớ
những tips sau: Red channel làm cho skintone sáng hơn và mềm mại
(soft), Green channel ảnh hưởng đến độ tương phản (contrast), và Blue
channel thì chứa nhiều “noise”
control từng channel Red, Green, Blue một một cách hiệu quả nên nhớ
những tips sau: Red channel làm cho skintone sáng hơn và mềm mại
(soft), Green channel ảnh hưởng đến độ tương phản (contrast), và Blue
channel thì chứa nhiều “noise”
Nguyên tắc chung là tạo nên 2
Channel Mixer Conversions: 1 cái “lo” về skintone, 1 cái “lo” về
contrast, cả 2 đều set Blue channel thấp, rồi dùng masking technique
“gom” tất cả thành 1 version.
Channel Mixer Conversions: 1 cái “lo” về skintone, 1 cái “lo” về
contrast, cả 2 đều set Blue channel thấp, rồi dùng masking technique
“gom” tất cả thành 1 version.
Ảnh sau được dùng để convert thành B&W:
Tải về hình thực hành
Step 1: Trên layer palette, bấm nút “Create new fill or adjustment layer”, chọn Channel Mixer.
Step 2: Check box Monochrome, set Red = 30, Green = 110.
Step 3: Chết man, hình bị cháy , đừng có hoãng, chưa xong mà.
Tắt con mắt của Channel Mixer 1 đi, để background layer (hình màu) lộ trở lại.
Tắt con mắt của Channel Mixer 1 đi, để background layer (hình màu) lộ trở lại.
Step 4:Lập lại step 1 và 2, nhưng set Red = 0, Green = 100, Blue = 0 (nhớ check Monochrome).
Step
5: Bật con mắt của Channel Mixer 1 lên, và click lên layer này cho nó
active. Nếu bạn làm đúng thì kết quả sẽ giống như hình dưới:
5: Bật con mắt của Channel Mixer 1 lên, và click lên layer này cho nó
active. Nếu bạn làm đúng thì kết quả sẽ giống như hình dưới:
Step
6: Step này dzui nhất vì ta sẽ xóa đi mấy cái “cháy”. Chuẩn bị chưa.
Bấm phím “D” để set foreground/background về mặc định (just do it). Bấm
phím “X” để set foreground màu đen.
Chọn “soft edge brush”, set
Opacity khoãng 50 (trên Option Bar, chư không phải Opacity của layer.
Rồi vẽ “hồn nhiên” lên chỗ “cháy”…
6: Step này dzui nhất vì ta sẽ xóa đi mấy cái “cháy”. Chuẩn bị chưa.
Bấm phím “D” để set foreground/background về mặc định (just do it). Bấm
phím “X” để set foreground màu đen.
Chọn “soft edge brush”, set
Opacity khoãng 50 (trên Option Bar, chư không phải Opacity của layer.
Rồi vẽ “hồn nhiên” lên chỗ “cháy”…
Sau khi tô lên chỗ “cháy”,
ta thấy cái mũi và một phần trán và má còn hơi cháy. Giảm Opacity xuống
còn 20, tô tiếp cho nó đi luôn. Thực ra những vùng này là 70 (hồi nãy
50, giờ cộng 20 là 70)
ta thấy cái mũi và một phần trán và má còn hơi cháy. Giảm Opacity xuống
còn 20, tô tiếp cho nó đi luôn. Thực ra những vùng này là 70 (hồi nãy
50, giờ cộng 20 là 70)
Ảnh sau khi hoàn tất. (Step này linh động, tùy theo sở thích của bạn)
—————
Thường thì có 2 trường hợp nên làm B&W:
1.Sau khi retouch đã đời và hài lòng với version màu thì làm luôn B&W, vì có 1 số hình đẹp cả 2 versions màu và B&W.
2.
Thương thì ảnh màu luôn có một hay hai màu chiếm ưu thế (dominate), nếu
màu mè “loạn xị”, hoặc bị “color cast”, hoặc “sai” màu (do set color
temperature, white balance sai), thì tốt nhất là chuyển B&W để “phi
tang tang chứng”
———-1.Sau khi retouch đã đời và hài lòng với version màu thì làm luôn B&W, vì có 1 số hình đẹp cả 2 versions màu và B&W.
2.
Thương thì ảnh màu luôn có một hay hai màu chiếm ưu thế (dominate), nếu
màu mè “loạn xị”, hoặc bị “color cast”, hoặc “sai” màu (do set color
temperature, white balance sai), thì tốt nhất là chuyển B&W để “phi
tang tang chứng”
2. Duotone:
Là
sự pha trộn màu giữa đen và một màu khác (trắng đen là dạng đặc biệt
của duotone khi đen pha với trắng). Sepia là dạng kinh điển nhất khi
đen pha với nâu đỏ.
Là
sự pha trộn màu giữa đen và một màu khác (trắng đen là dạng đặc biệt
của duotone khi đen pha với trắng). Sepia là dạng kinh điển nhất khi
đen pha với nâu đỏ.
Có it nhất là 5 cách làm duotone trong PS.
Cách “tiêu chuẩn” do PS đề ra là chuyển ảnh RGB thành grayscale, rồi
bắt đầu chọn màu pha với đen (có tỉ màu trong PS). Theo kinh nghiệm của
tác giả (hafoto) thì cách này không cho kết quả ổn định (consistency)
(he he he, hafoto dám chê PS), nên đã tự động “mò” ra phương pháp khác
dễ hơn, cho màu consistent hơn, và có thể làm “action” được.
Cách “tiêu chuẩn” do PS đề ra là chuyển ảnh RGB thành grayscale, rồi
bắt đầu chọn màu pha với đen (có tỉ màu trong PS). Theo kinh nghiệm của
tác giả (hafoto) thì cách này không cho kết quả ổn định (consistency)
(he he he, hafoto dám chê PS), nên đã tự động “mò” ra phương pháp khác
dễ hơn, cho màu consistent hơn, và có thể làm “action” được.
Phương pháp Sepia của hafoto (nghe oai wá)
Ảnh đươc dùng làm sepia:
Tải về hình thực hành
Nếu bạn dùng phương pháp chuyển B&W trên thì bỏ (skip) step 1 và 2.
Step 1: Image -> Adjustmemts -> Desaturate để loại bỏ màu hết.
Step
2: Control-L để mở “Levels” lên. Chỉnh input levels theo thứ tự: 10,
1.00, 245 (mục đích để tăng contrast đúng theo style sepia)
2: Control-L để mở “Levels” lên. Chỉnh input levels theo thứ tự: 10,
1.00, 245 (mục đích để tăng contrast đúng theo style sepia)
Step 3: Image -> Adjustments -> Color Balance
Set Yellow = -45, Red = 50
That’s it, ảnh sau khi chuyển thành Sepia
—————————–
3. Infrared:
Đặc
điểm của Infrared film là: 1. Green thì sáng và Blue thì tối. 2. Ảnh bi
hạt (grainy) và rực (glow) (loại film này high-speed và long-exposure).
Với nhưng đặc điểm này ta sẽ dùng Channel Mixer và Diffused Glow filter
để tái tạo lại (“nhái”) Infrared effect.
Đặc
điểm của Infrared film là: 1. Green thì sáng và Blue thì tối. 2. Ảnh bi
hạt (grainy) và rực (glow) (loại film này high-speed và long-exposure).
Với nhưng đặc điểm này ta sẽ dùng Channel Mixer và Diffused Glow filter
để tái tạo lại (“nhái”) Infrared effect.
Ảnh sau được dùng để tạo effect:
Tải về hình thực hành
Step
1: Trên Layer Panel, bấm nút “Create new fill or adjustment layer”,
check box Monochrom, set Red = 90, Green = 150, và Blue = -150.
1: Trên Layer Panel, bấm nút “Create new fill or adjustment layer”,
check box Monochrom, set Red = 90, Green = 150, và Blue = -150.
Step 2: Để làm cho ảnh “hạt” và “rực” (grainy and glow), ta dùng Diffused Glow filter.
Trong
PS, filter chỉ áp dụng cho một layer nên ta phải tạo một “bản sao” để
làm việc (ta vẫn muốn giữ Channel Mixer layer vì sau khi áp dụng
filter, ta có thể thay đổi Green và Blue nếu cần).
Step này cần 4 ngón tayTrong
PS, filter chỉ áp dụng cho một layer nên ta phải tạo một “bản sao” để
làm việc (ta vẫn muốn giữ Channel Mixer layer vì sau khi áp dụng
filter, ta có thể thay đổi Green và Blue nếu cần).
Shift-Control-Alt-N (cùng lúc) đẻ tạo blank layer (layer trống)
Shift-Control-Alt-E (cùng lúc) để “nhập” layer gốc và layer mask lại
Step 3: Vào Filter-Distort-Diffuse Glow, ta sẽ thấy 3 cái slider điều khiển mức độ diffuse glow:
Graininess slider: điều khiển mức độ hạt (set 6)
Glow Amount: điều khiển mức độ rực (set 1)
Clear Amount: Điều khiển mức đọ chi tiết (set 18)
Những setting trên có tính cách sở thích cá nhân, bạn có thể set cách khác tùy ý.
Step 4: Nếu cần thì làm thêm step này cho “phong phú”
Control-J: để tạo layer mới.
Filter-Blur-Gaussian Blur: set 10 pixels
Đổi mode trên Layer Panel thành soft light để rực hơn nữa, và thêm contrast.
Filter-Blur-Gaussian Blur: set 10 pixels
Đổi mode trên Layer Panel thành soft light để rực hơn nữa, và thêm contrast.
—————–
4. Cross-Processing:
Đây
là kỹ thuật mà người ta dùng chemical để tráng film 35mm dùng cho slide
film. Đây là một style rất là “unique” với đặc điểm là highlight bị
“cháy” (blown-out), màu đen thì cực đậm (rich black), tone màu nói
chung bị “shift” và trở nên high-saturated, và tương phản mạnh.
là kỹ thuật mà người ta dùng chemical để tráng film 35mm dùng cho slide
film. Đây là một style rất là “unique” với đặc điểm là highlight bị
“cháy” (blown-out), màu đen thì cực đậm (rich black), tone màu nói
chung bị “shift” và trở nên high-saturated, và tương phản mạnh.
Kỹ
thuật này rất thich hợp cho quảng cáo báo chí, với khung cảnh là những
thành phố công nghiệp, hay urban setting (New York, Chicago, Los
Angeles, Saigon (đặc biệt đường Nguyễn Huệ… ).
thuật này rất thich hợp cho quảng cáo báo chí, với khung cảnh là những
thành phố công nghiệp, hay urban setting (New York, Chicago, Los
Angeles, Saigon (đặc biệt đường Nguyễn Huệ… ).
Những người
chụp film phải suy nghĩ cẩn thận trước khi để film của mình
cross-processing, vì kỹ thuật này là “một ăn hai thua”, nếu mà ảnh xấu
thì coi như film hư luôn. Đối với người chụp digital thì không sao, vì
bản gốc JPEG vẫn còn nguyên (that’s why I shoot digital).
chụp film phải suy nghĩ cẩn thận trước khi để film của mình
cross-processing, vì kỹ thuật này là “một ăn hai thua”, nếu mà ảnh xấu
thì coi như film hư luôn. Đối với người chụp digital thì không sao, vì
bản gốc JPEG vẫn còn nguyên (that’s why I shoot digital).
Để đạt kết quả tốt thì hình phải có độ tương phản cao. Nếu chưa, thì có thể vào:
Image -> Adjustments -> Brightness/Contrast để tăng lên.
Image -> Adjustments -> Brightness/Contrast để tăng lên.
Ảnh sau được áp dụng cho kỹ thuật Cross-Processing.
Tải về hình thực hành
Step 1: Vào Image -> Duplicate… để tạo một bản sao của ảnh gốc.
Sau khi click OK để đồng ý duplicate, ta sẽ có 1 bản sao (dài dòng quá hen). Đây là bản mà ta dùng để cross-processing.
Step 2: Vào Image -> Mode-> Lab Color để đổi RGB color sang Lab Color
Step
3: Vào Window -> Channel để mở Channel Panel lên, tới đây, bạn sẽ
thấy bản copy này được cấu tạo bởi Lab Color với 3 channel là:
Lightness, a, và b.
3: Vào Window -> Channel để mở Channel Panel lên, tới đây, bạn sẽ
thấy bản copy này được cấu tạo bởi Lab Color với 3 channel là:
Lightness, a, và b.
Ta sẽ làm việc trên 2 channel a và b
Step 4: Click lên channel a để cho nó “active”
Vào Filter -> Blur -> Gausian Blur: Cho 5 pixels
Vào Filter -> Blur -> Gausian Blur: Cho 5 pixels
Control-L để mở Levels lên, áp dụng Input Levels: 77, 1.00, 255. Channel Lab bắt đầu màu bi “shift”
Step 5: Click lên channel b cho nó “active”. Channel này không cần Gaussian Blur, nhưng áp dụng Input Levels: 77, 1.4, 255.
Tới đây, nếu bạn click lên Lab channel bạn sẽ thấy màu hoàn toàn bị “shift”
Step 6: Control-A: chọn toàn ảnh
Control-C: để copy ảnh vào buffer (nơi ảnh “tạm trú”)
Tới đây thì bạn không cần “bản sao” này nữa, bạn có thể “close” nó lại.
Step 7: Sau khi “close” bản sao, bản sẽ thấy bản gốc.Control-C: để copy ảnh vào buffer (nơi ảnh “tạm trú”)
Tới đây thì bạn không cần “bản sao” này nữa, bạn có thể “close” nó lại.
Control-V: để copy bản sao từ buffer lên trên bản gốc
Đổi mode của layer “cross-processing” thành “Overlay”, và giảm Opacity khoãng 60-80 (tùy theo sở thích).
Ảnh sau khi “Cross Processing”
Step
làm thêm cho zdui: Nếu bạn muốn ảnh rực (glow) lên, thì duplicate layer
background, gaussian blur: 1 pixel, Opacity 40%. Thêm layer mask để vẽ
lại chi tiết của mặt một tí là xong.
làm thêm cho zdui: Nếu bạn muốn ảnh rực (glow) lên, thì duplicate layer
background, gaussian blur: 1 pixel, Opacity 40%. Thêm layer mask để vẽ
lại chi tiết của mặt một tí là xong.
Ảnh được thêm một tí “glow”
© Ha Nguyen – Hafoto.com
XIN XEM ONLINE Ở ĐÂY
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét