P>
Mình thật sự ngỡ ngàng và cảm động khi biết rằng người
đọc trước nhất, thường xuyên nhất trang Blog LỚP CHÚNG MÌNH lại chính
là người bạn ít nói nhất của lớp chúng mình: Bạn Há.
Mình viết bài này để cảm ơn sự đồng cảm của bạn đối
với mình. Hơn mười năm nay, bạn Há luôn đồng hành với mình từ những cuộc
họp mặt, những chuyến đi chơi dù dài hay ngắn. Khi mình có hoàn cảnh
khó khăn không thường xuyên đi với các bạn, bạn Há cũng là người không
ít lần động viên, an ủi mình.
Là người rất ít nói, nhưng mỗi câu nói của bạn Há luôn luôn rất thật, và rất chí lý ...........Khi mình mở trang blog này, cũng như nhiều bạn khác, bạn Há cũng không thể vào được, nhưng với sự giúp đỡ của con trai, bạn Há đã nhanh chóng tiếp cận và thường xuyên vào thăm, dù bạn không viết bài hay bình luận, nhưng mình vẫn biết bạn là người thường xuyên vào ra trang này nhất.
Cảm ơn bạn Há vì đã đồng cảm với mình khi tham gia Blog LỚP CHÚNG MÌNH. Cảm ơn bạn Há đã không tiếc thời gian, không ngại ngùng câu nệ tuổi tác, kiến thức còn trói buộc, đã mạnh dạn vào blog và có những ý kiến giúp mình nhìn thấy những thiếu sót của blog.
Một lần nữa mình xin cảm ơn bạn - người bạn mà mình luôn tin tưởng.
Ngọc Kúc
'Tri chi vi tri chi, bất tri vi bất tri, thị tri dã'
'Tri chi vi tri chi, bất tri vi bất tri, thị tri dã'
(Hiểu,
biết mà biết mình hiểu biết, thì gọi là hiểu biết. Không hiểu, không
biết mà tự biết mình không hiểu, không biết thì xem như đã tự hiểu biết
rồi vậy)
Luận Ngữ - Khổng Tử
Người xưa nói quả nhiên không sai: 'Vô tri bất mộ' (Hễ không hiểu biết được cái gì đó cho đến nơi tường tận, thì không thể nảy sinh lòng yêu mến được).
Xin kể một câu chuyện để làm minh họa.Luận Ngữ - Khổng Tử
Người xưa nói quả nhiên không sai: 'Vô tri bất mộ' (Hễ không hiểu biết được cái gì đó cho đến nơi tường tận, thì không thể nảy sinh lòng yêu mến được).
Ngày xưa có một danh sĩ làm quan đến chức Tể Tướng của Trung Hoa, đời Tống Thần Tông, năm 1074 dương lịch. Đó là Tể Tướng Vương An Thạch
(1021- 1086). Vương An Thạch đậu tiến sĩ năm 21 tuổi, đời Nhân Tông,
năm 1041. Ngoài việc lo cai trị đất nước cho hùng mạnh, Vương An Thạch
còn dành thì giờ để sáng tác thơ văn. Ông là người đọc nhiều và từng
trải nên kiến văn của ông rất rộng.
Tô Thức (1036 - 1101) đỗ tiến sĩ năm 22 tuổi, đời Tống Nhân Tông, năm 1057. Vào năm 1080, Tô Thức bị giáng làm Đoàn Huyện Phó Sứ tại Hoàng Châu, thuộc Hồ Bắc. Ở đây, ông cất nhà ở làng Đông Pha và lấy hiệu là Đông Pha Cư Sĩ và đã làm ra hai bài Tiền và Hậu Xích Bích Phú (1082). Người ta thường gọi ông là Tô Đông Pha.
Trong những bài thơ quan Tể Tướng Vương An Thạch làm, có một bài được viết theo lối thư họa treo ở sảnh đường. Một hôm, danh sĩ Tô Đông Pha được mời vào dinh Tể Tướng để cùng quan Tể Tưởng luận bàn thi thư và chính sự.
Trong khi ngồi chờ để được quan Tể Tướng tiếp kiến, Tô Đông Pha nhìn thấy bài thơ này trên vách sảnh đường. Bài thơ được viết với một bút pháp rất linh hoạt, niêm luật rất chặt chẽ, và tứ thơ rất sâu sắc. Tuy nhiên, trong bài thơ này có hai câu mà họ Tô thấy thật là phi lý như sau:
Minh Nguyệt sơn đầu khiếu, (Trăng sáng hót đầu núi)
Hoàng Khuyển ngọa hoa tâm. (Chó vàng nằm trong lòng bông hoa)
Cứ trong ý của từ ngữ mà suy thì họ Tô tự hỏi là: 'Tại sao mặt trăng sáng (minh nguyệt) mà lại hót trên đỉnh núi (sơn đầu khiếu) được? Con chó vàng (hoàng khuyển) sao có thể nằm trong lòng bông hoa (ngọa hoa tâm) được?' Sau khi suy nghĩ, họ Tô mới nảy ra ý để sửa lại hai câu thơ này như sau:
Minh Nguyệt sơn đầu chiếu, (Trăng sáng soi đầu núi)
Hoàng Khuyển ngọa hoa âm. (Chó vàng nằm dưới bóng bông hoa)
Sửa hai câu thơ xong, họ Tô cảm thấy thật đắc ý vì chỉ sửa có hai chữ (khiếu thành chiếu và tâm thành âm) mà lại làm cho hai câu thơ rõ hẳn ý nghĩa và vẫn giữ được nguyên vận của bài thơ. Theo họ Tô thì mặt trăng sáng (minh nguyệt) đi với động từ chiếu mới đắc ý vì trăng sáng thì chiếu chứ không bao giờ khiếu được, còn hoàng khuyển tức là con chó vàng thì phải nằm dưới bóng của bông hoa (hoa âm) mới có lý chứ không thể nào con chó lại nằm trong lòng bông hoa (hoa tâm) được. Chữ âm trong nghĩa của hoa âm là chỗ không có ánh nắng mặt trời.
Đang mải mê với sáng kiến của mình, họ Tô rất hứng khởi khi thấy quan Tể Tướng bước vào sảnh đường. Sau khi chào hỏi và phân ngôi chủ khách, Tô Đông Pha có ngỏ ý với quan Tể Tướng Vương An Thạch về việc sửa hai câu thơ nói ở trên. Quan Tể Tướng cười và gật gù tỏ ra ưng ý. Sau đó ngài không nói thêm gì về hai câu thơ này cả mà chỉ cùng Tô Đông Pha đàm luận về quốc sự.
Khoảng nửa tháng sau khi gặp Tể Tướng Vương An Thạch, Tô Đông Pha nhận được lệnh đi trấn thủ ở miền Nam, nhân vào tuần trăng sáng, ông bèn đi ngắm cảnh dưới trăng và thấy có nhiều điều lạ. Đêm nào cũng vậy, cứ đến khi trăng tỏa ánh sáng khắp núi rừng, ông đều nghe thấy những tiếng chim hót thật du dương thánh thót và thơ mộng. Rất lấy làm hứng thú, ông mới cố tìm hiểu xem đây là giống chim gì mà hót hay như vậy. Sau khi hỏi thăm dân chúng trong vùng, Tô Đông Pha mới biết tiếng hót thánh thót ấy là của giống chim tên là Minh Nguyệt. Chim Minh Nguyệt chỉ hót ở đỉnh núi vào những đêm có trăng sáng mà thôi. Tìm hiểu chỉ để thỏa mãn sự tò mò của mình chứ Tô Đông Pha cũng chẳng có ý gì khác.
Hết thưởng thức tiếng chim hót, họ Tô lại đi dạo ngắm hoa dưới trăng. Thật là thú vị khi thấy trong vùng ông trấn thủ có nhiều loại hoa mà bông hoa lại rất lớn và hương thơm ngào ngạt. Sau khi ngắm kỹ mỗi bông hoa, họ Tô nhận thấy đóa hoa nào cũng có một con sâu to nằm trong lòng hoa. Ông lấy làm lạ mới hỏi thăm dân trong vùng về hiện tượng này. Dân làng cho ông ta biết là ở vùng này có loại sâu tên là Hoàng Khuyển sống bằng cách hút nhụy hoa. Vì thế trong mỗi bông hoa đều có con sâu Hoàng Khuyển. Nghe đến đây họ Tô mới giật mình và liên tưởng tới hai câu thơ của Vương An Thạch mà ông ta đã tự ý sửa. Thì ra ở đây: Hoàng Khuyển và Minh Nguyệt đều là tên riêng của sự vật cả...!
Cái lỗi của Tô Đông Pha là ở chổ chưa tìm hiểu ý nghĩa cho thấu đáo, chưa hỏi tác giả để biết cái ẩn ý cao thâm, chưa bàn bạc để tìm ra cái ý tác giả muốn nói, thì đã tự ý sửa thơ người khác.
Với những gì đã tai nghe và mắt thấy ở đây, Tô Đông Pha cảm thấy xấu hổ về sự suy luận nông nổi của mình khi tự ý sửa hai câu thơ của Tể Tướng Vương An Thạch. Liền sau đó, ông đã dâng thư về tạ tội với quan Tể Tướng. Họ Tô tự nhủ là việc ông ta bị bổ đi trấn thủ ở miền Nam này là do Tể Tướng đã cố ý dạy cho mình một bài học thực tiễn.
Sau đó ít lâu, họ Tô được triệu về làm quan tại Kinh Đô. Quan Tể Tướng rất niềm nở tiếp đón Tô Đông Pha. Và từ đó Tô Đông Pha rất kính phục quan Tể Tướng cả về tài năng, đức độ, và kiến văn quảng bác của ngài.
Cái thâm thúy của Vương An Thạch là ông ta không cần phải biện bạch gì với Tô Đông Pha khi họ Tô tự ý sửa hai câu thơ của ông. Điều tốt nhất là để cho Tô Đông Pha phải tự mình tìm hiểu bằng cách va chạm với thực tế bằng mắt thấy tai nghe. Có nghe và thấy mới tin là đúng.
Nếu chỉ nghe nói hay đọc được mà biết thì cái biết đó cũng còn mơ hồ. Quả đúng là tai nghe không bằng chính mắt mình thấy, thấy không bằng chính mình dự vào việc luận bàn cho ra lẽ rồi tự mình thực hành công việc đã nghe, đã thấy, và đã thảo luận. Đây cũng là phương pháp giáo dục nhân bản, khoa học, và tân tiến vậy.
Thay cho lời kết, xin mượn một câu nói của Lão Tử trong Đạo Đức Kinh:
Tô Thức (1036 - 1101) đỗ tiến sĩ năm 22 tuổi, đời Tống Nhân Tông, năm 1057. Vào năm 1080, Tô Thức bị giáng làm Đoàn Huyện Phó Sứ tại Hoàng Châu, thuộc Hồ Bắc. Ở đây, ông cất nhà ở làng Đông Pha và lấy hiệu là Đông Pha Cư Sĩ và đã làm ra hai bài Tiền và Hậu Xích Bích Phú (1082). Người ta thường gọi ông là Tô Đông Pha.
Trong những bài thơ quan Tể Tướng Vương An Thạch làm, có một bài được viết theo lối thư họa treo ở sảnh đường. Một hôm, danh sĩ Tô Đông Pha được mời vào dinh Tể Tướng để cùng quan Tể Tưởng luận bàn thi thư và chính sự.
Trong khi ngồi chờ để được quan Tể Tướng tiếp kiến, Tô Đông Pha nhìn thấy bài thơ này trên vách sảnh đường. Bài thơ được viết với một bút pháp rất linh hoạt, niêm luật rất chặt chẽ, và tứ thơ rất sâu sắc. Tuy nhiên, trong bài thơ này có hai câu mà họ Tô thấy thật là phi lý như sau:
Minh Nguyệt sơn đầu khiếu, (Trăng sáng hót đầu núi)
Hoàng Khuyển ngọa hoa tâm. (Chó vàng nằm trong lòng bông hoa)
Cứ trong ý của từ ngữ mà suy thì họ Tô tự hỏi là: 'Tại sao mặt trăng sáng (minh nguyệt) mà lại hót trên đỉnh núi (sơn đầu khiếu) được? Con chó vàng (hoàng khuyển) sao có thể nằm trong lòng bông hoa (ngọa hoa tâm) được?' Sau khi suy nghĩ, họ Tô mới nảy ra ý để sửa lại hai câu thơ này như sau:
Minh Nguyệt sơn đầu chiếu, (Trăng sáng soi đầu núi)
Hoàng Khuyển ngọa hoa âm. (Chó vàng nằm dưới bóng bông hoa)
Sửa hai câu thơ xong, họ Tô cảm thấy thật đắc ý vì chỉ sửa có hai chữ (khiếu thành chiếu và tâm thành âm) mà lại làm cho hai câu thơ rõ hẳn ý nghĩa và vẫn giữ được nguyên vận của bài thơ. Theo họ Tô thì mặt trăng sáng (minh nguyệt) đi với động từ chiếu mới đắc ý vì trăng sáng thì chiếu chứ không bao giờ khiếu được, còn hoàng khuyển tức là con chó vàng thì phải nằm dưới bóng của bông hoa (hoa âm) mới có lý chứ không thể nào con chó lại nằm trong lòng bông hoa (hoa tâm) được. Chữ âm trong nghĩa của hoa âm là chỗ không có ánh nắng mặt trời.
Đang mải mê với sáng kiến của mình, họ Tô rất hứng khởi khi thấy quan Tể Tướng bước vào sảnh đường. Sau khi chào hỏi và phân ngôi chủ khách, Tô Đông Pha có ngỏ ý với quan Tể Tướng Vương An Thạch về việc sửa hai câu thơ nói ở trên. Quan Tể Tướng cười và gật gù tỏ ra ưng ý. Sau đó ngài không nói thêm gì về hai câu thơ này cả mà chỉ cùng Tô Đông Pha đàm luận về quốc sự.
Khoảng nửa tháng sau khi gặp Tể Tướng Vương An Thạch, Tô Đông Pha nhận được lệnh đi trấn thủ ở miền Nam, nhân vào tuần trăng sáng, ông bèn đi ngắm cảnh dưới trăng và thấy có nhiều điều lạ. Đêm nào cũng vậy, cứ đến khi trăng tỏa ánh sáng khắp núi rừng, ông đều nghe thấy những tiếng chim hót thật du dương thánh thót và thơ mộng. Rất lấy làm hứng thú, ông mới cố tìm hiểu xem đây là giống chim gì mà hót hay như vậy. Sau khi hỏi thăm dân chúng trong vùng, Tô Đông Pha mới biết tiếng hót thánh thót ấy là của giống chim tên là Minh Nguyệt. Chim Minh Nguyệt chỉ hót ở đỉnh núi vào những đêm có trăng sáng mà thôi. Tìm hiểu chỉ để thỏa mãn sự tò mò của mình chứ Tô Đông Pha cũng chẳng có ý gì khác.
Hết thưởng thức tiếng chim hót, họ Tô lại đi dạo ngắm hoa dưới trăng. Thật là thú vị khi thấy trong vùng ông trấn thủ có nhiều loại hoa mà bông hoa lại rất lớn và hương thơm ngào ngạt. Sau khi ngắm kỹ mỗi bông hoa, họ Tô nhận thấy đóa hoa nào cũng có một con sâu to nằm trong lòng hoa. Ông lấy làm lạ mới hỏi thăm dân trong vùng về hiện tượng này. Dân làng cho ông ta biết là ở vùng này có loại sâu tên là Hoàng Khuyển sống bằng cách hút nhụy hoa. Vì thế trong mỗi bông hoa đều có con sâu Hoàng Khuyển. Nghe đến đây họ Tô mới giật mình và liên tưởng tới hai câu thơ của Vương An Thạch mà ông ta đã tự ý sửa. Thì ra ở đây: Hoàng Khuyển và Minh Nguyệt đều là tên riêng của sự vật cả...!
Cái lỗi của Tô Đông Pha là ở chổ chưa tìm hiểu ý nghĩa cho thấu đáo, chưa hỏi tác giả để biết cái ẩn ý cao thâm, chưa bàn bạc để tìm ra cái ý tác giả muốn nói, thì đã tự ý sửa thơ người khác.
Với những gì đã tai nghe và mắt thấy ở đây, Tô Đông Pha cảm thấy xấu hổ về sự suy luận nông nổi của mình khi tự ý sửa hai câu thơ của Tể Tướng Vương An Thạch. Liền sau đó, ông đã dâng thư về tạ tội với quan Tể Tướng. Họ Tô tự nhủ là việc ông ta bị bổ đi trấn thủ ở miền Nam này là do Tể Tướng đã cố ý dạy cho mình một bài học thực tiễn.
Sau đó ít lâu, họ Tô được triệu về làm quan tại Kinh Đô. Quan Tể Tướng rất niềm nở tiếp đón Tô Đông Pha. Và từ đó Tô Đông Pha rất kính phục quan Tể Tướng cả về tài năng, đức độ, và kiến văn quảng bác của ngài.
Cái thâm thúy của Vương An Thạch là ông ta không cần phải biện bạch gì với Tô Đông Pha khi họ Tô tự ý sửa hai câu thơ của ông. Điều tốt nhất là để cho Tô Đông Pha phải tự mình tìm hiểu bằng cách va chạm với thực tế bằng mắt thấy tai nghe. Có nghe và thấy mới tin là đúng.
Nếu chỉ nghe nói hay đọc được mà biết thì cái biết đó cũng còn mơ hồ. Quả đúng là tai nghe không bằng chính mắt mình thấy, thấy không bằng chính mình dự vào việc luận bàn cho ra lẽ rồi tự mình thực hành công việc đã nghe, đã thấy, và đã thảo luận. Đây cũng là phương pháp giáo dục nhân bản, khoa học, và tân tiến vậy.
Thay cho lời kết, xin mượn một câu nói của Lão Tử trong Đạo Đức Kinh:
'Thiện Nhân Bất Biện, Biện Nhân Bất Thiện'(Người
thiên lương, chính trực thì không cần nhất thiết phải biện hộ cho hành
vi của mình - vì chưng chỉ mình lương tâm biết cũng đã đủ)
Còn người phải ngược xuôi tìm hết lý này lẽ kia để giải thích cho việc này mình là là đúng, việc kia mình làm là có nguyên do... thì tự chất hành vi đã có tính bất thiện)
Thiên Tàm Lão Tổ
Còn người phải ngược xuôi tìm hết lý này lẽ kia để giải thích cho việc này mình là là đúng, việc kia mình làm là có nguyên do... thì tự chất hành vi đã có tính bất thiện)
Thiên Tàm Lão Tổ
Gặp và không gặp
Kiến dữ bất kiến 見與不見 (Gặp và không gặp
妳見,或者不見我 Nàng gặp, hay không gặp ta
我就在那裏 Ta vẫn ở đây
不悲不喜 Không mừng, không lụy
.妳念,或者不念我 Nàng nhớ, hay không nhớ ta
情就在那裏 Tình vẫn ở đây
不來不去 Không còn, không mất
妳愛或者不愛我 Nàng yêu, hay không yêu ta
愛就在那裏 Yêu vẫn ở đây
不增不減 Không thêm, không bớt
妳跟,或者不跟我 Nàng theo, hay không theo ta
我的手就在妳的手裏 Tay ta vẫn nơi nàng
不捨不棄 Không lơi, không siết
.来我懷裏 Hãy ngả vào lòng ta
或者 hoặc là
讓我住進妳的心裏 dành cho ta một chỗ trong trái tim nàng
漠然相愛 (để đôi ta) bình lặng yêu nhau
寂静歡喜 âm thầm thương tưởng
.胤禎 Dận Chân
Nghe đọc bài thơ này ở đây http://www.tudou.com/programs/view/OFoipmbpCc8/
và tham khảo thêm ở đây http://blog.daobachlien.com/2011/02/cung-toa-tam-ngoc-2/
chúc các ban vui vẻ
Bọn mình chuyển sang Trung Hoa ở đi

Bửa nay rảnh quá, giỡn chơi một chút. Đổi lớp mình thành Trung Hoa luôn.
Ưu tiên bạn nữ 2 ảnh nhaĐầu tiên là 2 cô giáo đang ngồi trên cao. Thầy HT đứng dưới quát nạt: Wò tả nị xảy à
(ông nào phụ tui cái tiếng Hoa coi)
1 Thầy (thầy nào đây ta - chắc thầy Ngọc) đang cố xô xuống, còn thầy (Năng) đang cố leo lên. Thầy Nghĩa thì chạy mất dép.

Kế tiếp là LỚP CHÚNG MÌNH đang rất vui nè.

Thêm tấm nữa cho rõ. Ọe ọe, toàn con gái không.



Bi giờ mình sẽ xếp theo thứ tự ABC nhen. Bảo đảm hổng có ai xấu đâu. Ưu tiên cho mấy bạn người Hoa được làm ông lớn nha. Đầu tiên là bạn Bích nè. Híhíhí, đẹp chai quớ.
Trương Hồng Cơ
Siêng học như zầy thì chỉ có Trần Ngọc Cúc và Nguyễn Thị Dân
Đồng Thị Đào đang quậy.
Có con rồng trước ngực vầy thì bạn Há thành ông zua rồi.
Cả hai Hoa (Nguyễn - Phan) cùng rất đẹp



Dương Thị Khánh, Nguyễn Thị Là cũng đẹp kém gì đâu.
Ai đây? Trong đầm gì đẹp bằng sen .... (tự hiểu đi)



Luận và Thanh Mai dễ thương quớ.




Lớp phó xinh đẹp Tuyết Nga

Hoa hậu lớp mình đây. Khuyến mãi thêm một tiểu nha hoàn.


Đỗ Thị Phượng



.


Lâm Thị Trí


Bạch Tuyết nè.
Còn đây là cặp bài trùng Tuyết Vân - Vui


Và sau cùng là Trùm Mafia Trừ.

Và Dân, Mỹ Hương Luận, Hoa Phan.
Lớp trưởng đi hành hiệp giang hồ

Ta phá án đây: Đứa nào, khai ra mau. Hết kiểu rồi hay sao mà con ghế thì giả trai còn con trai thì đi tu vậy hả



Thầy Nghĩa than phiền: Ôi cái lũ THỨ BA HỌC TRÒ. Ta chán, ta ngán tụi này quá.

Cô Hòa: Bó tay thui

Bây giờ có nên khuyến mãi thêm hình mấy đứa lâu rồi không thấy mặt mũi không ta?







Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét